Samsara_1

Bánh xe Cuộc đời

Các Kinh điển đều nói đến giáo lý của Đức Phật về sự phụ thuộc lẫn nhau của nhân và quả. Giáo lý quan trọng giải thích về điều này –là mười hai mối liên hệ duyên khởi (còn gọi là thập nhị duyên khởi. ND). Giáo lý này trình bày rõ về toàn bộ quá trình liên tục của huyễn ảnh lớn trong bức tranh rộng lớn về chu kỳ tái sinh, luân hồi; trong chuỗi liên tục ngắn hơn của một kiếp sống đơn lẻ, và chuỗi liên tục của mỗi khoảnh khắc. Trong các tu viện Phật giáo Tây Tạng, chúng ta thường nhìn thấy bức tranh mô tả huyễn ảnh của chu trình luân hồi và mười hai mối liên hệ duyên khởi như là Bánh xe của Cuộc đời.

Mối duyên khởi đầu tiên là vô minh. Bởi chúng ta không nhận biết được tính vô nhị do bản ngã / cái “tôi”, nên chúng ta trở nên nhị nguyên. Bị che đậy bởi cái “tôi”, chúng ta không nhìn thấy thực thể tối thượng. Đây là vô minh, mối liên kết đầu tiên trong chuỗi duyên khởi. Trong Bánh xe Cuộc đời, vô minh được biểu hiện như một người đàn ông mù lòa.

Mối duyên khởi thứ hai là hành. Do vô minh, chúng ta phát triển sự ham muốn để làm vài thứ, để hành động – hành động tích cực, hành động tiêu cực, hoặc là những hành động không xấu cũng không tốt. Do kết quả của ham muốn này, những nhân và duyên tiếp theo được tạo ra. Ham muốn để hành động là mối liên kết thứ hai trong chuỗi nhân duyên. Một bình gốm biểu tượng cho ham muốn.

Mối duyên khởi thứ ba là thức. Ham muốn hướng tới ý thức mà khởi đầu với nhận thức tốt và xấu. Trong bức tranh, hình ảnh con khỉ ăn trái đào là biểu tượng cho điều này. Nếm trải kinh nghiệm luân hồi tạo ra si mê, cung cấp thức ăn cho ý thức này phát triển. Mối liên kết thứ ba có khả năng tạo ra ý thức vững chắc để tiếp tục trong tương lai.

Mối duyên khởi thứ tư là sắc tướng. Biểu thị qua hình ảnh hai người đàn ông trong một cái thuyền, mang biểu thị của các duyên, bao gồm hiện tượng bên ngoài, như là các nguyên tố và các hình tướng nhị nguyên và nhiều loại khác. Mỗi khía cạnh của ý thức gắn với những cơ chế môi trường.

Mối duyên khởi thứ năm là sáu giác quan. Do phân chia hơn nữa tính nhị nguyên, thông qua mắt/hình tướng, tai/âm thanh, lưỡi/vị, da/tiếp xúc qua va chạm, và mũi/ ngửi, trở thành vững chắc hơn. Mối liên kết này được mô tả trong Bánh xe Cuộc đời như là sáu căn nhà trống rỗng.

Mối duyên khởi thứ sáu là xúc. Gọi là sự tiếp xúc. Đây là sự gặp gỡ của giác quan và sự vật thông qua giác quan, khi các giác quan trở thành mạnh mẽ đã phát triển mang tính đối ngẫu. Đó là dục vọng – ham muốn để chạm hay là tiếp xúc với các đối tượng thông qua giác quan, và điều này biểu tượng qua hình ảnh sự giao hợp của người đàn ông và người phụ nữ.

Mối duyên khởi thứ bảy là thọ. Mối duyên khởi thứ sáu dẫn đến duyên khởi thứ bảy – là kết quả của tiếp xúc. Đó là cảm thọ thỏa mãn hoặc đau đớn. Khi có tiếp xúc hay là va chạm lúc đó bạn có cảm thọ. Nếu đó là tốt đẹp thì bạn sẽ thích; nếu nó là tồi tệ, bạn sẽ không thích. Một âm thanh, mùi vị, bất cứ điều gì có thể đưa đến sự thỏa mãn hay là đau đớn. Lúc đó sẽ phát triển hơn nữa yếu tố này: là khi có ai đó ca ngợi bạn thì bạn vui vẻ, và khi có người lăng mạ thì bạn khó chịu. Điều này là sự phát triển phân tách ra, nhưng được xem là một phần của duyên khởi thứ bảy. Trong bức tranh, mối duyên khởi này được biểu hiện như một người mù bởi những mũi tên xuyên vào hai mắt, vì các cảm thọ có thể quá độ và khiến chúng ta không thấy được bản chất và hoàn cảnh thật sự.

Mối duyên khởi thứ tám là tham ái. Tham ái khiến bạn luôn luôn muốn hơn nữa. Điều này được thể hiện trong bức tranh là mọi người đang uống. Yếu tố này đưa đến do sự phát triển thêm của cảm giác nhị nguyên. Cá nhân bị gắn với các hình tướng, vị, va chạm nhất định. Và có ham muốn nhiều hơn nữa. Cùng với luyến ái và tham lam đối với mọi thứ, bạn có thể dẫn tới ác cảm đối với những thứ bạn không thích, và nỗi sợ hãi bạn sẽ bị mất những thứ bạn có. Vì vậy, nó không phải chỉ là một mặt. Bạn bị gắn vào nỗi sợ vì mặt khác của tính tham lam. Bạn không thể từ bỏ vài thứ bạn muốn có, nhưng bạn cũng không thể từ bỏ điều bạn không muốn có. Cả hai cực đoan này đều được coi là tham ái.

Mối duyên khởi thứ chín là thủ. Bạn có khuynh hướng theo đuổi những thứ bạn ham muốn hoặc là từ chối những thứ bạn ác cảm. Điều này được mô tả trong bức tranh như là một con khỉ đang nắm giữ trái cây. Điều này cũng có thể vận hành theo cách ngược lại, khi nỗi sợ hãi hoặc là ác cảm được gia tăng hướng tới những điều tốt cho bạn, nhưng bạn lại từ chối. Hay là vài điều là không tốt cho bạn, ngay cả rất có hại, nhưng do tham ái và tham lam những thứ này vẫn tăng lên, do vậy bất chấp những điều này, bạn sẽ làm bất cứ điều gì để có được nó. Nghiện ma túy là một ví dụ về điều này. Nắm giữ và chiếm đoạt là kết quả của duyên khởi thứ tám, cái này gia tăng tham ái và lòng tham, và làm tăng thêm ham muốn và theo đuổi những mục tiêu của tham ái.

Mối duyên khởi thứ mười là hữu. Hay còn được dịch như là tác thành. Đó là sự tích tụ của nghiệp đã củng cố để đưa đến các quả tương lai – ham dục, luyến ái, và nắm giữ. Mối duyên khởi này mở cửa cho chuỗi tiếp tục của các nhân duyên, và cũng lát đường để tái sinh vào một trong sáu cõi giới của luân hồi. Điều này được biểu thị là một phụ nữ có bầu.

Mối duyên khởi thứ mười một là sinh. Đây là quả của các nhân và duyên đã được tạo ra từ những mối duyên khởi trước. Đó là sự sinh. Tùy thuộc vào nghiệp, nhân và duyên, chúng sinh sẽ sinh vào trong một của sáu cõi giới. Cõi giới người ban cho ta cơ hội tốt nhất cho sự tỉnh giác. Cũng có thể sinh vào các cõi giới của trời, nửa trời nửa người (atula), súc sinh, ma đói, và địa ngục. Khi các duyên chín muồi, sự sinh diễn ra. Nó được mô tả trong Bánh xe Cuộc đời như là sự sinh ra của đứa trẻ.

Mối duyên khởi thứ mười hai là lão và tử. Khi sự sinh diễn ra, tuổi già và cái chết theo ta một cách tự nhiên. Sinh ra là khởi đầu của cái chết. Cái chết là khởi đầu chu kỳ của mọi thứ lại bắt đầu. Một xác chết là biểu thị cho điều này trong bức tranh Bánh xe Cuộc đời.

Duyên khởi đầu tiên, vô minh, duyên khởi thứ tám, tham ái, và duyên khởi thứ chín, thủ/ nắm giữ, được xem là ba ô nhiễm. Con gà trống là biểu thị cho sự nắm giữ; con rắn biểu thị cho ham dục và tham ái; và con heo biểu thị cho vô minh, đây là các yếu tố được thể hiện ở trung tâm của Bánh xe Cuộc đời. Duyên khởi thứ hai, hành và duyên khởi thứ mười, hữu/tạo tác, được phân loại như là hành động, hay là nghiệp. Trong Bánh xe Cuộc đời, duyên khởi này được thấy như là một viền tròn bao quanh ba ô nhiễm chính, một bên là những người có các hoàn cảnh tốt đẹp, và một bên khác là những người có các hoàn cảnh tồi tệ. Các duyên khởi thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, mười một, và mười hai được phân loại như là nền tảng cho sự khổ đau của luân hồi. Cũng có một cách nhìn khác về mười hai mối duyên khởi theo một thứ tự khác. Toàn bộ Bánh xe Cuộc đời bị nắm giữ bởi ma quỷ, Diêm vương (Yama), và Thần Chết – điều này nghĩa là dù ở cõi giới hay hoàn cảnh nào thì chu kỳ tái sinh vẫn tiếp diễn. Thoát ra khỏi sự đắm chìm vào bánh xe, Đức Phật chỉ cho ta con đường giải thoát khỏi tái sinh và khổ đau.

Đấy là nguyên lý tái sinh được dạy trong các Kinh điển Phật giáo và Mật điển. Tái sinh, và việc chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác được giảng rõ ràng trong các giáo lý của Mật thừa. Thực sự là ích lợi và quan trọng để hiểu một số quan niệm Mật thừa về tâm và thể xác của con người. Theo quan điểm Mật thừa, tâm và thân có nhiều mức độ, có một số điều vượt ra khỏi thân và tâm do sự nhận thức và hiểu biết hạn hẹp về chính chúng ta và những chúng sinh khác sống quanh ta. Thân và tâm mà chúng ta nhận thức hình thành một phần nhỏ của bức tranh.

Có một thân thể vũ trụ vĩ mô, bao hàm tất cả những điều chúng ta nhận biết và trải nghiệm trong nó. Toàn bộ vũ trụ là thân chúng ta vì chúng ta ở trong đó. Nó là thân thể to lớn hơn của chúng ta, và bất kỳ điều gì xẩy ra trong bộ phận nào của vũ trụ này cũng đều tác động tới chúng ta, mặc dầu chúng ta không ý thức đầy đủ về nó như thế nào. Thuật chiêm tinh của Mật thừa có thể ích lợi trong cuộc sống của mọi người, bởi vì đây là phương pháp phát hiện ra những biến cố của vũ trụ này và cách thức giải quyết chúng. Nếu ai đó đặt tay thuộc thân thể vật lý của bạn vào lửa, bạn cảm thấy đau rát. Điều này cũng xảy ra với cơ thể lớn hơn (vũ trụ). Bất kỳ điều gì xảy ra trong bộ phận nào của vũ trụ cũng tác động đến ta. Chúng ta có lẽ trải nghiệm nó như là một tâm trạng tồi tệ, hay ngược lại, một vận may lớn về tài chính của chúng ta hoặc là các mối quan hệ cá nhân, hoặc là sự sa ngã hay tiến bộ của tinh thần. Chiêm tinh có thể xác định những điều đang tiếp diễn trong thiên hà và hệ mặt trời của chúng ta, nhưng các ảnh hưởng vượt ra khỏi đó (hệ mặt trời) cũng tác động vào chúng ta. Trong giáo lý Mật thừa, vũ trụ vĩ mô này được gọi là “ ngàn lần thứ ba” – nghĩa là 100 triệu hệ thống mặt trời.

“ Ngàn lần thứ hai” nhỏ hơn ngàn lần thứ ba. Nó biểu hiện 1,000 lần của 1,000 hay là một triệu lần. Bất cứ điều gì xảy ra trong phần này của vũ trụ tác động trực tiếp đến chúng ta nhiều hơn các biến cố trong vũ trụ vĩ mô lớn hơn. Những biến cố trong “ngàn lần đầu tiên” – 1,000 hệ mặt trời bao quanh ta trong mọi hướng, tác động vào chúng ta rất mạnh. Những gì xảy ra trong hệ mặt trời của chúng ta sẽ tác động trực tiếp nhất vào chúng ta. Tất nhiên là bất kỳ điều gì xảy ra trên hành tinh (trái đất) của chúng ta thì có ảnh hưởng sâu xa vào chúng ta. Bây giờ chúng ta có thể phân tích về suy thoái môi trường và tác động của nó vào các dạng sống, chúng ta đang trải nghiệm về sự thật này như thế nào. Có các chứng cớ của ngành khoa học về trái đất về các tác động môi trường vào chúng ta, và tác động của chúng ta vào môi trường.

Sau khi xem xét của các lĩnh vực chi tiết của những biểu thị, các giáo lý Mật thừa còn giải thích về những sự kiện trong cơ thể mỗi cá nhân tác động vào tâm trí như thế nào. Ở mức độ thân vật lý của con người như chúng ta, có một thân bên ngoài, một thân bên trong, và thân vi tế. Thân bên ngoài có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Thân bên trong tích cực hơn là tiêu cực. Và thân vi tế là tích cực. Tâm – bản tính phật là hoàn hảo.

Hơi thở cũng tương tự như các yếu tố này của thân. Thở là hoạt động liên tục. Trong hơi thở có hơi thở ngoài, hơi thở trong, và hơi thở vi tế. Thông qua thiền, trì tụng, thể dục, và các thực hành khác nhau, thân bên ngoài có thể được thanh lọc vì hơi thở ngoài đang được thanh lọc, và các hơi thở trong và vi tế có thể ảnh hưởng tới thân và hơi thở bên ngoài.

Mối quan hệ vật lý giữa các thân và tâm được khai triển ngay trước khi chúng ta được thụ thai trong người mẹ. Mối kết nối giữa thân đặc biệt và tâm được phát triển chỉ ở khoảnh khắc trước khi thụ thai. Sự hòa trộn vào nhau này giữa tâm phi vật chất và thân vật chất là một trong số bước quan trọng nhất của tiến trình tái sinh.

Tâm là rất vi tế, nhưng tư tưởng và tình cảm được sinh ra từ tâm lại không vi tế như là bản chất tinh khiết của tâm. Tư tưởng và cảm xúc là hữu hạn, nhưng tâm là vô hạn. Tư tưởng là biểu thị của vô minh, và điều đó khiến tâm trở nên giới hạn. Năng lượng vi tế nhất của vũ trụ là thành phần vi tế nhất của thực thể vật lý. Năng lượng vi tế này cùng với những tư tưởng và cảm xúc của tâm có khả năng kết nối và gắn lại với nhau. Năng lượng vũ trụ vi tế, cùng với tư tưởng và cảm xúc, kết hợp với năng lượng của nghiệp – được gọi là gió hay là khí của nghiệp đi vào thực thể vật lý đầu tiên. Thực thể này được biết như là thân dạng lỏng.

Dưới những điều kiện bình thường, thân lỏng trở nên đông đặc sau hai mươi chín ngày. Nó đông chậm, nhưng sau hai mươi chín ngày khí nghiệp, năng lượng của vũ trụ, và yếu tố cảm xúc của tâm, tất cả tập trung vào trung tâm của thân lỏng đã đông đặc. Khí nghiệp liên quan đến cha, mẹ và chúng ta. Tất cả những duyên khởi nghiệp đến cùng với nhau. Nó giống như là trung tâm của cơn lốc. Vào thời điểm đó dù chúng ta ở bất cứ nơi nào, ngay cả cách xa 20 triệu thiên hà, thì tâm của chúng ta vẫn sẽ đến với người cha và người mẹ nghiệp duyên của chúng ta, để hợp nhất vào thân lỏng đó. Thân chúng ta biểu hiện thân lỏng đã đông đặc theo các nhân và duyên – đó là nghiệp. Điều này khởi đầu từ điểm được gọi là kinh mạch trung tâm – ở chính giữa thân thể.

Tất cả các giác quan được tập trung ở trung tâm của thân. Các chi là quan trọng, nhưng chúng không quan trọng đối với sự tiếp tục của cuộc sống. Nếu ai đó cắt rời chân hoặc tay của chúng ta, nếu được chăm sóc tốt thì chúng ta sẽ không chết. Nếu cơ thể bị cắt đôi ở phần giữa, hoặc là đầu bị cắt rời, thì chúng ta sẽ chết. Trung tâm (phần giữa) của cơ thể là quan trọng nhất. Tất cả các kinh mạch đều xuất phát từ đó. Những kinh mạch bên ngoài bao gồm các động mạch, mạch máu, dây thần kinh. Thân vi tế có những kinh mạch riêng của nó mà chúng ta không thể thấy được. Tất cả đều được phát triển qua các chuyển động của khí nghiệp, năng lượng vũ trụ, và cảm xúc.

Có một ẩn dụ đơn giản. Một đồng cỏ xinh đẹp với nhiều rễ cây có thể ăn được ở dưới đất. Có một gia đình thỏ sống dựa vào đồng cỏ. Hàng ngày những con thỏ đi từ nơi ở của chúng dưới một bụi cây tới đồng cỏ để ăn các rễ cây. Sau một thời gian, dấu chân của chúng tạo ra những lối đi tới tất cả những nơi quan trọng có thức ăn và nước. Cũng như vậy, do năng lượng di chuyển trong thân lỏng, nó cũng phát triển tất cả các mạch và các chi, và tất cả những thứ thích hợp với các chuyển động của nó. Chuyển động lần vết theo hình tướng.

Các chuyên gia và những người có trực giác có thể đọc được nét mặt, lòng bàn tay, và có khả năng thấy được tương lai, bởi vì những đặc điểm vật lý này là kết quả của toàn bộ tiến trình nghiệp kết nối giữa tâm và thân đối với mỗi cuộc đời riêng biệt.

Có một cách giải thích đơn giản về làm thế nào tâm không hình tướng lại đi vào hình tướng, tình cảm, giác quan, và vân vân của một thân vật lý. Kiếp trước của một chúng sinh có thể là một thần linh hoặc là một súc sinh, nhưng nó có thể sinh làm người trong kiếp này. Có sinh thì có diệt. Khi tâm thức rời khỏi thân thể thì đó là cái chết. Sự chết là của thân chứ không phải của tâm thức. Tâm thức không chết mà luôn luôn tiếp diễn.

Đức Kenting Tai Situpa XII

Việt dịch: Nguyên Toàn