Padmasambhava

Đạo sư Padmasambhava

Guru Rinpoche, một trong những bậc lão thông của Phật giáo Ấn Độ, là vị sáng lập Phật giáo ở Tây Tạng. Ngài được gọi là Padmasambhava (Padma ‘Byung gNas), Liên Hoa Sanh, và Guru xứ Oddiyāna. Ở Tây Tạng ngài thường được gọi là Guru Rinpoche, Đạo sư Tôn quý. Những hành giả phái Nyingma tôn kính ngài như Đức Phật thứ hai.

Trước khi đi vào cuộc đời của Guru Rinpoche, tôi muốn thảo luận một ít về những vấn đề mà chúng ta có thể có trong việc thấu hiểu một cuộc đời đầy năng lực, bí mật, huyền bí và giác ngộ như cuộc đời của Guru Rinpoche.

Làm cách nào một bậc lão thông có thể thực hiện những điều huyền nhiệm và đạt được thân ánh sáng? Prahevajra, Manjushrīmitra, Shrīsimha, Jnanasūtra, Vimalamitra, và Guru Rinpoche và những phối ngẫu của ngài, cũng như nhiều đệ tử của ngài, là những hiển lộ của chư Phật hay những bậc giác ngộ cao cấp. Cuộc đời và thọ mạng của các ngài không bị giới hạn như cuộc đời của một người bình thường. Những hiển lộ của chư Phật trong thân tướng của những bậc lão thông vĩ đại thỉnh thoảng xuất hiện trong lịch sử của thế giới, nhưng rất hiếm hoi. Prahevajra, Manjushrīmitra, Shrīsimha, và Jnanasūtra đã tan hòa thân hiển lộ của các ngài vào Pháp thân, không để lại nhục thân vào cuối đời. Bởi các ngài đã thành tựu việc làm chủ được thọ mạng của mình nên các ngài sống nhiều thế kỷ. Nhờ sự uyên bác và hiến dâng cho thiền định Nyingthig, Vimalamitra đã thành tựu thân của sự đại chuyển hóa, và ngài vẫn còn ở trong thân ánh sáng này và sẽ ở trong thân tướng đó hàng ngàn năm. Và mặc dù là một hiển lộ của Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Vô Lượng Quang, nhưng Guru Rinpoche đã hiển lộ là một bậc đầy năng lực đang theo đuổi việc tu tập bí mật để thành tựu những kết quả hầu mang lại lợi lạc cho chúng sinh. Ngài cũng được tin là ở trong thân ánh sáng của sự đại chuyển hóa.

Những thành tựu của các vị lão thông này không chỉ ở sự trường thọ của thân khả tử (có thể chết) của các ngài hay ở việc đạt được một thân siêu cảm giác (an astral body – thể vía), mà còn ở chỗ thành tựu thân giác ngộ, ánh sáng tự-xuất hiện của giác tánh nội tại, Phật tánh. Mặc dù đối với những người bình thường như chúng ta, ta không thể nhìn thấy thân ánh sáng như nó là, nhưng khi ta có thể nhận được những lợi lạc thì ta sẽ nhìn thấy nó trong những hình thức thích hợp với bản tánh của ta.

Khi chúng ta nghe kể những câu chuyện về những bậc lão thông sống hàng thế kỷ hay phô diễn những điều huyền diệu, hầu hết chúng ta đều do dự trong việc chấp nhận những chuyện như thế, đó là may mắn lắm. Ngoài ra cũng có những người đọc về các bậc lão thông và thưởng thức những câu chuyện về sự trường thọ và những điều huyền diệu nhưng không thể chấp nhận những câu chuyện đó bởi chúng không phù hợp với những điều họ đang kinh nghiệm. Tuy thế hầu hết các nền văn hóa và tôn giáo cổ đã ghi chép những sự kiện có liên quan tới những người siêu phàm, và những thành tựu siêu nhiên chẳng hạn như sự trường thọ và phô diễn những năng lực huyền diệu, là kết quả của sức mạnh tâm linh sâu thẳm và năng lực thiền định, chứ không phải bởi năng lực vật chất.

Ngày nay chúng ta đang chứng kiến những điều huyền diệu về vật chất, là những điều mà thời xa xưa người ta không thể nào tin được, nhưng chúng ta đã hay đang mất đi sự tiếp xúc với năng lực thâm sâu của ta. Chúng ta đã trở thành những nô lệ đơn thuần của thế giới vật chất bên ngoài. Vì thế vấn đề không nằm ở chỗ những năng lực bí mật có vô căn cứ hay không, mà đúng hơn chúng ta đang tự biến mình thành những kẻ xa lạ với năng lực thực sự của chân lý thâm sâu củachính ta, giống như một người dấu kín của cải ở nhà và đi ăn xin trong đường phố.

Tại sao cần phải nghiên cứu những hiển lộ của Đức Phật? Nếu những Đạo sư như Guru Rinpoche là những hiển lộ của chư Phật, thì tại sao các ngài phải kinh qua việc tu tập mãnh liệt và tại sao các ngài phải đối mặt với những chướng ngại? Có hai vấn đề. Trước hết, những hiện thân của chư Phật sẽ xuất hiện và sẽ thực hiện những hoạt động của các ngài một cách nghiêm nhặt trong bất kỳ thân tướng và vai trò nào mà các ngài hiển lộ. Nếu các ngài hiển lộ như những viên chức xã hội, các ngài sẽ hoàn thành vai trò đó bằng cách trở thành người cung cấp thực phẩm, chỗ ở, và thuốc men, hay các ngài sẽ làm việc để củng cố những giá trị đạo đức và gia đình, cho dù các ngài là những hiện thân Phật. Vì thế, nếu những bậc lão thông đã hiển lộ như các Đạo sư bí mật, các ngài sẽ đóng vai trò học tập như những học viên, thực hành như những thiền giả, và thành tựu như những bậc lão thông – giống như, nếu quý vị làm một cái muỗng bằng vàng, nó sẽ thực hiện chức năng là một cái muỗng, và nếu quý vị làm một vật trang sức bằng vàng thì nó sẽ thực hiện chức năng của một vật trang sức; cho dù vàng là một kim loại quý có thể được giữ gìn như một phần của các kho tàng quốc gia.

Thứ hai, những hiển lộ (Nirmānakāya, Hóa thân) khác nhau xuất hiện không phù hợp với viễn cảnh của Đức Phật mà phù hợp với viễn cảnh của những người bình thường, bởi các ngài xuất hiện với những người này để phụng sự họ. Thông thường, những người bình thường không có nghiệp và những tính khí tốt nhất để có thể nhìn thấy, cảm nhận, hay đón tiếp những đấng tuyệt hảo trong các hiển lộ. Tùy theo tính chất về nghiệp hay cảm xúc của họ, vai trò của sự hiển lộ cũng sẽ bị giới hạn. Ngay cả những bậc lão thông vĩ đại như Guru Rinpoche cũng bị những người bình thường nhìn thấy trong thân tướng bình thường hay giống như thân tướng bình thường chứ không ở trong thân ánh sáng của sự đại chuyển hóa. Khi Guru Rinpoche ở Tây Tạng, có một thời gian Vua Trisong Detsen khó có thể tin rằng Đức Liên Hoa Sanh ở trong thân ánh sáng. Trước sự nài nỉ của Guru Rinpoche, nhà vua dùng nắm tay đấm ngài ba lần, và mỗi lần như thế nhà vua không thể chạm vào thân ngài mà chỉ chạm vào ghế ngồi của ngài.

Những bậc lão thông vĩ đại chẳng hạn như Prahevajra và Guru Rinpoche không chỉ là các hiển lộ của chư Phật, mà hiển lộ như những bậc có tài năng với những phẩm tính của các bậc lão thông. Các ngài có năng lực và trí tuệ giác ngộ phi thường. Các bậc lão thông như các ngài đã biểu lộ năng lực hiển lộ nhiều thân tướng trong một thời gian, làm cho nhiều thân tướng biến thành một, và phô diễn những yếu tố (các đại) đối nghịch, chẳng hạn như nước và lửa hòa hợp nhau, phù hợp với tính chất của nghiệp và tâm thức và nhu cầu của các đệ tử là thính giả của các ngài. Tất cả những hiển lộ kỳ diệu đó có thể có do bởi nghiệp thuần thục của nhiều người ở thời gian và nơi chốn đó.

Tại sao có những tường thuật khác nhau về cuộc đời của những bậc lão thông? Đặc biệt là cuộc đời của Guru Rinpoche là một trong những cuộc đời kỳ diệu nhất có thể có trong bất kỳ lịch sử của thế giới tâm linh nào, và vì thế nó xuất hiện với rất nhiều biến thể. Những tường thuật khác nhau không hàm ý một tường thuật là đúng và những tường thuật khác là sai. Những hiển lộ của cuộc đời của các bậc lão thông xuất hiện một cách khác biệt cho những người khác nhau ở những nơi chốn và thời gian khác nhau để họ được phụng sự trong cách thế thích hợp nhất. Trong nhiều trường hợp, một hiển lộ duy nhất trong một phút chốc duy nhất được những người khác nhau nhìn một cách khác biệt. Đó là bởi năng lực giác ngộ của các bậc lão thông, sự điều phục tối thượng của các ngài đối với những hình thức huyễn hóa, thời gian, và không gian của các hiện tượng bình thường. Đó là vấn đề rốt ráo, nó làm cho năng lực của các Đạo sư hoàn toàn thành tựu trở nên phi thường, và tạo nên một suối nguồn vĩ đại của sự gia hộ và năng lực tích cực cho những người khôn ngoan, khoáng đạt, và sùng mộ. Ngoài ra, toàn bộ lý do tại sao những hiển lộ của Đức Phật xuất hiện trước những người bình thường như chúng ta là bởi những tính chất và nhu cầu của ta, là những chúng sinh khác nhau, chứ không phải bởi áp lực thuộc về nghiệp và tập khí của những ý niệm, cảm xúc, và hành động của các hiển lộ.

Trong số nhiều bản tường thuật khác nhau về tiểu sử của Guru Rinpoche do các đại học giả biên soạn hay do các đại tertön, là những người thừa kế tâm linh của ngài, khám phá, có nhiều bản mà những người bình thường như bản thân tôi có thể nhận thức được. Dựa vào những nguồn mạch đó, dưới đây là một tường thuật vắn tắt về cuộc đời của Guru Rinpoche.

Sau khi Đức Phật nhập diệt tám năm (hay theo một số người thì là mười hai), một hiển lộ của Đức Phật A Di Đà mà sắc thân được tô điểm bằng những tướng tốt ra đời không bằng thai tạng của một người đàn bà (thai sanh) mà được sinh ra một cách tinh khiết (hóa sanh) trong một hoa sen trong Biển Sữa ở tây bắc của xứ Oddiyāna giữa những dấu hiệu kỳ diệu.

Vào lúc đó, có một vị vua vĩ đại rộng lượng tên là Indrabhūti ở Oddiyāna. Trong nhiều năm, ngài đã cung cấp mọi nhu cầu vật chất cho những người nghèo khó cho tới khi nhà kho của ngài trống không. Giờ đây ngài không còn gì để bố thí và ngài cũng mất thị lực. Ngài không có con kế nghiệp để chăm sóc cho thần dân. Mặc dù vậy, với lòng can đảm và nhiệt thành thường có trong việc cung cấp những nhu cầu cho dân chúng, bất chấp những chống đối của các thượng thư, đích thân ngài cùng với vị thượng thư trung thành Krishnadhara và một số đông thủy thủ vượt biển để tìm những viên ngọc như ý. Trên đường trở về, sau khi đã có những viên ngọc và cũng phục hồi được thị lực nhờ năng lực của những viên ngọc, nhà vua và vị thượng thư nhìn thấy một đứa trẻ khoảng tám tuổi đẹp lạ lùng đang ngồi trên một hoa sen nở giữa Biển Sữa. Hết sức kinh ngạc, nhà vua hỏi cậu bé: “Cha mẹ của ngươi là ai? Ngươi thuộc dòng dõi nào? Tên ngươi là gì? Ngươi ăn gì? Ngươi làm gì ở đây?” Để trả lời cậu bé hát những vần kệ sau đây bằng một giọng thật quyến rũ.

Cha tôi là giác tánh nội tại, Samantabhadra (Phổ Hiền).

Mẹ tôi là Pháp giới tối thượng, Samantabhadrī.

Dòng dõi của tôi là sự hợp nhất giác tánh nội tại và Pháp giới tối thượng.

Tên tôi là Liên Hoa Sanh vinh quang [Padmasambhava].

Xứ sở của tôi là pháp giới vô sanh.

Tôi ăn những tư tưởng bất nhị.

Vai trò của tôi là thành tựu những hoạt động của chư Phật.

Khi họ nghe những lời này, lòng tin và niềm hỉ lạc bừng nở trong trái tim của mỗi người. Cậu bé chấp nhận lời mời của vua và đi theo họ. Nhà vua nuôi cậu bé và đưa về cung điện, ở đó nhà vua phong cho cậu bé làm thái tử. Vào lúc đó Guru Rinpoche được gọi là Padmasambhava (hay Padmakara), Liên Hoa Sanh.

Thêm một lần nữa, nhà vua và các thần dân vui hưởng sự thịnh vượng. Vua ban những tặng phẩm hào phóng cho tất cả những người nghèo khó trong quốc gia. Cả nước đều được hưởng hạnh phúc và an bình. Thái tử trẻ tuổi được học nhiều bộ môn và xuất sắc trong việc học tập và những cuộc thi đấu điền kinh. Sau đó ngài cưới Dākini Prabhāvatī (Bậc có Ánh sáng) và phụng sự vương quốc phù hợp với luật lệ của Giáo Pháp. Vào lúc đó ngài được gọi là Vua Shikhin (Đấng đội Khăn Xếp).

Guru Rinpoche biết rằng bằng cách phụng sự trong vai trò của một vị vua, ngài sẽ không thể phục vụ những nhu cầu thực sự, những lợi lạc tâm linh của những người khác. Ngài thỉnh cầu nhà vua cho phép ngài từ bỏ vương quốc nhưng bị từ chối. Sau đó ngài nhận ra những phương tiện thiện xảo để tẩu thoát. Nhờ năng lực của sự tiên tri, ngài nhận ra rằng cái chết sắp đến với con trai của vị thượng thư độc ác Kamata do nghiệp trước đây của cậu bé. Vì thế trong khi họ đang cùng nhau nhảy múa, Guru Rinpoche để cho chiếc chĩa ba của ngài tuột khỏi tay và giết chết cậu bé. Thật đau buồn, nhà vua chiếu theo luật lệ nghiêm khắc của vương quốc và đày ngài đi lang thang trong các hầm mộ. Khi cáo từ, Guru Rinpoche hát cho cha mẹ ngài:

Mặc dù hiếm khi nhận ra thiện tâm của cha mẹ,

Các ngài đã chăm sóc con như cha mẹ và tôn phong con.

Con trai của thượng thư đã chết dưới tay con bởi món nợ nghiệp của nó.

Cho dù con bị trục xuất, nhưng không có gì phải sợ hãi, bởi con không dính mắc điều gì.

Cho dù con bị tử hình, không có gì phải sợ hãi, bởi đối với con sinh và tử đều như nhau.

Thật là tuyệt vời khi con bị trục xuất, bởi đối với nhà nước, luật lệ thật thiêng liêng.

Cha và mẹ, xin ở lại an lành.

Do mối liên hệ nghiệp, chúng ta sẽ còn gặp lại.

Guru Rinpoche bị đày ở mộ địa Shītavana. Ở đó ngài thực hành những bài tập bí mật và nhìn thấy những Bổn Tôn hòa bình. Kế đó ngài đi tới mộ địa Rừng Hoan hỉ (Nandanavana; dGa’ Ba’i Tshal) và nhận những quán đảnh bí mật từ Dakini Marajita (bậc Điều phục những Thế lực Tiêu cực). Ngài đi tới mộ địa Sosadvipa và được Dākinī Shāntarakshitā (bậc Giữ gìn Hòa bình) gia hộ. Chỉ huy tập hội dākinī, ngài thụ hưởng những giới luật bí mật trong những mộ địa khác nhau. Khi đó Ngài được gọi là Shāntarakshitā (bậc Giữ gìn An bình).

Ngài đi tới đảo Dhanakosha, ở đó ngài nói với các dākinī bằng ngôn ngữ biểu tượng của họ và đặt họ dưới sự chỉ huy của ngài. Tại mô địa Parushakavana, trong khi thực hành những bài tập bí mật, ngài nhìn thấy linh kiến thanh tịnh về Vajravārāhī và nhận những gia hộ của bà. Với năng lực giác ngộ, ngài đã điều phục các nāga (rồng) trong một đại dương và các za trong bầu trời. Những dāka và dākinī trí tuệ ban những thành tựu cho ngài. Khi đó ngài được gọi là Dorje Trakpo Tsal (Sự Phẫn nộ Kim cương Khổng lồ).

Ngài đi tới Vajrāsana (Bodhgaya, Bồ đề đạo tràng) và phô diễn nhiều điều huyền diệu, thừa nhận rằng ngài là một vị Phật tự-chứng ngộ. Với nhiều mục đích trong tâm, ngài đi tới xứ Sahor và nhận giới luật xả ly từ Đạo sư Prabhāhasti. Khi đó ngài được gọi là Shākyasimha (Sư tử của các Shākya – Thích Ca).

Ngài nhận những giáo lý Yogatantra mười tám lần và nhìn thấy linh kiến thanh tịnh về các Bổn Tôn Yogatantra. Ngài nhận quán đảnh từ Ānandā, một dākinī trí tuệ trong thân tướng một sư cô. Bà đã biến Guru Rinpoche thành một chữ HŪM và bà nuốt chữ này. Trong thân bà Guru Rinpoche được ban cho toàn bộ những quán đảnh Ngoại, Nội, và Bí mật, và bà đẩy ngài ra khỏi thân bà qua padma (hoa sen, âm hộ) của bà.

Tại bảo tháp Deche Tsekpa, ngài nhận những quán đảnh và giáo huấn về tám mạn đà la từ tám Vidyādhara (Trì minh vương), đó là Manjushrīmitra, Nāgārjuna, Hūmkara, Vimalamitra, Prabhāhasti, Dhanasamskrita, Rombuguhya, và Shantigarbha. Ngài nhận Guhyagarbha-tantra từ Buddhaguhya, và Đại Viên mãn, đặc biệt là Nyingthig, từ Manjushrīmitra. Tại mộ địa Tsubgyur Tsal, ngài gặp Shrīsimha và nghiên cứu các tantra Me-ngagde và giáo lý Khandro Nyingthig trong hai mươi lăm năm. Ngài nhìn thấy những linh kiến thanh tịnh về nhiều bậc linh thánh ngay cả khi không làm bất kỳ thực hành hay thiền định đặc biệt nào về các vị này. Ngài đạt được trạng thái của vị Hộ trì trí tuệ với dư nghiệp (rNam sMin Rig ‘Dzin). Khi đó ngài được gọi là Loden Chokse (Đam mê Siêu việt Uyên bác).

Theo truyền thống Kinh thừa của Phật giáo, những giai đoạn (cấp độ) thành tựu được phân loại theo mười cấp độ (thập địa) và năm con đường, và chúng là những bước để đạt được Phật quả. Trong những truyền thống Mật thừa, những cấp độ được phân ra hay phân loại bằng những cách khác nhau. Hầu hết các Kinh điển Mật thừa của phái Nyingma có bốn thành tựu, được gọi là những vị hộ trì trí tuệ (trì minh vương, vidyādhara).

Vị hộ trì trí tuệ với những dư nghiệp là vị đầu tiên trong bốn vị hộ trì trí tuệ. Vị này có ba đặc tính. Tâm ngài đã toàn thiện hay thuần thục như Bổn Tôn, nhưng những gì còn lại của nghiệp quả về thân vật lý thô nặng chưa từ bỏ được, và ngay lập tức sau khi rời khỏi thân khả tử (chết), ngài sẽ đạt được vị hộ trì trí tuệ của dấu hiệu lớn (Phyag rGya’i Rig ‘Dzin), thành tựu thứ ba, mà tôi sẽ thảo luận sau này.

Ngài đi tới xứ Sahor, ở đó ngài gặp Công chúa Mandāravā, con gái của vua, khi đó đang thực hành Pháp trong cô tịch như một sư cô. Bởi ý nghĩa bí mật của mối quan hệ của ngài với công chúa bị hiểu lầm, ngài đã bị thiêu sống trên một giàn thiêu khổng lồ theo lệnh của nhà vua. Thay vì bị đốt cháy, ngài đã biến ngọn lửa thành một khối nước và nhiên liệu thành một hoa sen. Ngày hôm sau, người ta nhìn thấy Guru Rinpoche đang ngồi trên hoa sen giữa hồ. Người ta tin rằng cái hồ là Hồ Rewalsar thuộc Quận Mandi ở Himachal Pradesh miền bắc Ấn Độ. Để chuộc lỗi, vua xứ Sahor cúng dường ngài vương miện của vua, áo, và giày cùng toàn thể vương quốc, và Công chúa Mandāravā là phối ngẫu tâm linh của ngài. Guru Rinpoche ban giáo lý cho vua và các thần dân, và nhiều người đạt được chứng ngộ. (Trong hầu hết những miêu tả về Guru Rinpoche, ta thấy ngài đội mũ hoa sen, áo choàng không tay bằng gấm thêu, và đi đôi giày do vua xứ Sahor cúng dường để biểu thị năng lực giác ngộ của ngài.)

Sau đó ngài và Mandāravā đi tới Động Māratika ở Nepal, và trong ba tháng các ngài thực hiện sādhana trường thọ. Đức Phật Amitāyus xuất hiện trước các ngài và ban quán đảnh trường thọ, nhờ đó các ngài không thể xa lìa Đức Phật Amitayus. Các ngài đã thành tựu trạng thái của vị hộ trì trí tuệ (trì minh vương), là trạng thái kiểm soát được đời sống. Nhờ sự thành tựu thứ hai này, không chỉ tâm ngài được viên mãn như Bổn Tôn, mà ngay cả thân thô nặng của ngài cũng được toàn thiện. Sự thành tựu này có đặc tính là không bị bốn ô nhiễm (Zag Pa). Bốn ô nhiễm là những cảm xúc phiền não của tà kiến, sự mất thân thể (chết) mà không có sự kiểm soát hay chọn lựa, không làm chủ được sự hòa hợp của những yếu tố (tứ đại) của thân thể (sức khỏe), và tái sinh theo nghiệp. Những vị hộ trì trí tuệ thứ nhất và thứ hai tương đương với con đường nội quán, con đường thứ ba, và cấp độ đầu tiên trong hệ thống mười cấp độ (thập địa) của truyền thống Kinh điển. Trong cấp độ này quý vị từ bỏ che chướng của những phiền não thuộc cảm xúc (phiền não chướng) (Nyon sGrib), cái đầu tiên trong những che chướng, che chướng thứ hai là những che chướng thuộc trí thức (sở tri chướng).

Sau đó, cùng với Mandāravā, ngài trở về xứ Oddiyāna. Trong khi các ngài đang khi khất thực, ngài bị nhận ra là người đã giết con trai của thượng thư. Bởi ngài không tuân theo bản án trục xuất, họ thiêu cháy ngài và vị phối ngẫu trong một đống lửa khổng lồ. Nhưng một lần nữa, ngày hôm sau họ tìm thấy cả hai đang an tọa trên một hoa sen trong một cái hồ, đeo những vòng sọ người quanh cổ. Sau đó ngài được gọi là Pema Thötreng Tsal (Liên Hoa Sanh, Đeo Vòng hoa-Sọ người Vĩ đại).

Cùng với vị phối ngẫu, Guru Rinpoche ở Oddiyāna mười ba năm như quốc sư của vương quốc, và ở đó ngài ban những quán đảnh và giáo huấn Kadü Chökyi Gyatso. Nhà vua và nhiều thần dân may mắn đã đạt được chứng ngộ siêu việt và thành tựu thân ánh sáng. Sau đó ngài được gọi là Padmarāja (Vua Sanh Trong Hoa Sen).

Guru Rinpoche đã tự hiển lộ là Indrasena, một tu sĩ thành tựu đã cùng với một sa di của ngài làm cho Hoàng đế Ashoka (thế kỷ thứ ba trước Công nguyên) cải đạo sang Phật giáo. Ashoka, nhà cai trị vĩ đại nhất của lịch sử Ấn Độ, đã truyền bá Phật pháp vượt qua biên giới Ấn Độ.

Một vài người chống Phật giáo dâng thuốc độc cho Guru Rinpoche, nhưng ngài vẫn bình yên vô sự. Một số người ném ngài xuống sông Hằng, nhưng ngài được đưa ngược dòng. Sau đó ngài được gọi là Khyeu Khadeng Tsal (Chim Garuda Khổng lồ Trẻ trung).

Tại những mộ địa khác nhau, kể cả Kula Dzok, ngài ban những giáo lý Mật điển cho các dākinī, và ngài đã trích xuất sinh lực từ những tinh linh đầy năng lực, là những người mà ngài đã chỉ định là những vị Hộ Pháp. Ngài được gọi là Sūryarashmi (Những Tia Sáng Mặt trời).

Tại Bodhgayā, trong một cuộc tranh luận, ngài đã đánh bại năm trăm người giữ những tà kiến. Khi họ cố gắng chiến thắng ngài bằng huyền thuật, nhờ năng lực của những thần chú của Dākinī Mārajitā, nữ Bổn Tôn đầu sư tử, ngài làm cho huyền thuật quay trở lại họ. Khi các vị Thầy này bị buộc phải im lặng, ngài ổn định các ngôi làng và khiến họ cải đạo sang Phật giáo. Vì thế ngài được gọi là Simhanāda (Tiếng Gầm của Sư tử).

Sau đó tại Yangle Shö, hiện nay được gọi là Pharping ở Nepal, cùng với vị phối ngẫu Shākyadevi, con gái của Vua Punyadhara (Người Giữ gìn Đức hạnh) của Nepal, ngài thực hành sādhana của mạn đà la Yangdak (Shrīheruka). Vào lúc đó, trời không mưa trong ba năm bởi những che chướng do các tinh linh hùng mạnh gây ra. Bệnh tật và nạn đói lan rộng. Ngài yêu cầu mang các bản văn Vajrakīla ở Ấn Độ về cho ngài. Khi hai kiện hàng tới nơi, những tai ách gây đau khổ cho xứ sở được làm yên dịu. Kể từ đó có câu tục ngữ: “Yangdak dồi dào những thành tựu, như một thương gia. Nhưng Vajrakīla thì cần thiết cho sự bảo vệ, giống như một người lính gác.” Ngài và vị phối ngẫu đạt được trạng thái của một vị hộ trì trí tuệ (Trì minh vương) của Đại Ấn (Phyag rGya’i Rig ‘Dzin; Vidyādhara Đại Ấn). Trong thành tựu này thân căn bản của hành giả (hay thân thực sự) ở trong hình tướng của Bổn Tôn. Để làm lợi lạc chúng sinh, nó xuất hiện trong những thân hóa hiện khác nhau. Năng lực của sự tiên tri của hành giả và những năng lực khác thì trong sáng hơn, thanh tịnh hơn, và kiên cố hơn năng lực của vị Trì minh vương với sự làm chủ đời sống và tương tự (nhưng không tương đương) với những phẩm tính của thân hỉ lạc. Đây là sự tương đương với những chứng ngộ tới cấp độ thứ chín (cửu địa), và con đường thiền định, con đường thứ tư của truyền thống Phật giáo thông thường.

Ở mộ địa Sosadvīpa, Guru Rinpoche, người đã là một Đạo sư Mật thừa thành tựu cao cấp, nhận sự trao truyền cùng những giáo lý của ba giáo khóa Đại Viên mãn với những tantra và Khandro Nyingthig từ Shrīsimha. Ngài đã tu tập những giáo lý này trong ba năm và thành tựu thân ánh sáng của sự chuyển hóa vĩ đại (‘Pho Ba Ch’en Po).

Các thiền giả thành tựu Đại Viên mãn cao cấp nhất làm cạn kiệt mọi sự thành chân tánh và hợp nhất tâm họ thành bản tánh giác ngộ tối thượng, sự thuần tịnh nguyên sơ. Nếu họ quyết định, họ cũng có thể tan biến hay chuyển hóa thân vật lý của mình thành sự thuần tịnh. Có hai phạm trù chính của sự thành tựu, đó là thân cầu vồng và thân cầu vồng của sự đại chuyển hóa. Nhờ sự hoàn thành thiền định cắt đứt (Khreg Ch’od), vào lúc họ mất (suốt thời gian vài ngày), thân họ tan rã và biến mất. Họ không để lại tử thi thô nặng gồm thịt, xương, hay da mà chỉ để lại hai mươi cái móng và tóc của thân thể. Mặc dù đây là một sự tan rã của thân và không phải là một sự chuyển hóa thân thành một thân ánh sáng, nó được gọi là thân cầu vồng, bởi trong thời gian tiến trình tan rã luôn luôn xuất hiện những chiếc lều, những vòng cung, và những vòng ánh sáng nhiều màu khác nhau như cầu vồng quanh thân và nhà ở. Nhờ thực hành sự tiếp cận trực tiếp (Thod rGal), họ chuyển hóa xác của mình thành thân ánh sáng vi tế và an trụ ở đó cho tới khi có một công việc để thực hiện vì lợi lạc của chúng sinh. Đối với một người như thế, không chỉ thân của họ mà tất cả những xuất hiện có tính chất hiện tượng đều chuyển hóa thành hình thức và bản tánh của ánh sáng vi tế. Tuy nhiên, những người bình thường sẽ không nhìn thấy thân ánh sáng của họ như nó là, mà sẽ chẳng nhìn thấy gì hết hay sẽ thấy nó trong thân tướng bình thường, như đã đề cập trước đây trong chương về Vimalamitra. Cũng có nhiều bậc lão thông Đại Viên mãn vĩ đại lìa bỏ thân xác của họ trong hình thức xá lợi (Ring bSel), những hình ảnh, và/hay những chữ, như đối tượng của sự cảm hứng và các môn đồ.

Guru Rinpoche đã viếng thăm nhiều nơi trên khắp xứ Ấn Độ và nhiều xứ sở và hòn đảo, phụng sự chúng sinh bằng phương tiện của năng lực huyền diệu và những giáo lý giác ngộ của ngài. Thậm chí ngài đã viếng thăm Zhangzhung, hiển lộ là Tavihricha (‘Od Kyi Khyeu), và dạy Dzogchen Nyen-gyü, mà hiện nay được biết là một trong những giáo lý chính của Đại Viên mãn trong đạo Bön, để dẫn dắt nhiều chúng sinh đạt được tâm giác ngộ và thân ánh sáng.

Tulku Thondup Rinpoche

Việt dịch: Thanh Liên

Trích Tác phẩm: Các Đạo Sư của sự Thiền định và những điều kỳ diệu