41473117_2181458565197748_8318433998229471232_n

Trung ấm Thiền định

Giờ đây khi Trung Ấm Thiền Định đang ló dạng trong con,

Con sẽ từ bỏ mớ bòng bong những niệm tưởng phóng tâm và lẫn lộn,

An trụ trong trạng thái bao la không bám chấp hay tán loạn,

Kiên định trong hai pháp tu: quán tưởng [sinh khởi]  và viên thành,

Trong thời thiền này với sự nhất tâm siêu vượt hoạt động,

Con sẽ không để sức mạnh của những cảm xúc mê lầm sai xử con.

Những dòng đầu tiên trong câu kệ gốc của Trung Ấm Thiền Định chỉ dẫn chúng ta giữ cho tâm không tán loạn. Những loại thiền được đề cập trong Trung Ấm Thiền Định là các phương pháp tu thiền khác nhau mà chúng ta thực hiện, bắt đầu từ Bốn Niệm Chuyển Tâm, thiền chỉ, thiền quán và nhận ra chân tâm. Mục đích thực sự của thiền định là gì? Chúng ta thiền định để nhận ra chân tâm, để thấy rõ bản chất thực sự của mình. Đầu tiên và quan trọng nhất là chúng ta phải ổn định được tâm của mình, vì nếu không làm được điều này thì tâm sẽ giống như “mớ bòng bong những niệm tưởng phóng tâm và lẫn lộn.” Giai đoạn đầu khi quan sát tâm, con sẽ thấy có rất nhiều suy nghĩ giống như đám bụi dưới ánh sáng mặt trời. Có nhiều suy nghĩ luyến ái và ghét bỏ v.v. Đầu tiên, những đối tượng bên ngoài chẳng hạn như những vấn đề [gặp phải]  khuấy lên cảm xúc và con phản ứng lại. Rồi những suy nghĩ khởi hiện và con bắt đầu bám chấp vào đó. Khi con tiếp tục theo đuổi những suy nghĩ này thì tâm của con càng bị vướng kẹt và con tạo nghiệp. Vì thế, bám chấp vào các tư tưởng là sai lầm. Ví dụ giả sử có người xúc phạm con, điều đó làm cho con buồn và con cứ nghĩ về nó. Những suy nghĩ này giống như những chiếc gai nhọn đâm vào con và vì vậy sự tức giận trong con sẽ gia tăng. Sự bám chấp dẫn đến mê lầm và mê lầm là trạng thái tán loạn. Con trở nên không chánh niệm, chạy đuổi theo bất kỳ suy nghĩ nào xuất hiện một cách bất cẩn.

Có hai dạng hoạt động. Một dạng là các hoạt động thế gian vô nghĩa không mang lại một kết quả ý nghĩa nào, ví dụ các con tụ tập và tiêu khiển như đánh bạc, xem vô tuyến hay chơi bời. Những hoạt động này thực sự chẳng mang lại điều gì có ý nghĩa, chúng chỉ là những sự tán loạn của tâm. Vì vậy, trước khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nào thì đầu tiên con nên suy nghĩ về nó: mục đích của việc này là gì, mình sẽ đạt được điều gì? Nếu con thấy rằng hoạt động đó vô nghĩa và thân-khẩu-ý khi tiến hành hoạt động này chẳng mang lại điều gì quan trọng cả thì con nên xem hoạt động đó là một sự tán loạn và tốt hơn là con nên tránh làm. Trái lại, có những hoạt động ý nghĩa mang lại những kết quả tích cực thì con nên tham gia. Tất nhiên con cần phải suy nghĩ về các hoạt động định làm và đưa ra một kế hoạch tốt. Nhưng khi đã quyết định và dự kiến tiến hành một hoạt động nhất định, con không nên nuôi hy vọng là cần phải thành tựu được việc đó. Thường thì chúng ta hay mong muốn thành công trong mọi việc mình làm. Con nên nỗ lực hết sức nhưng việc có thành công hay không phụ thuộc vào nghiệp của con. Nếu con hiểu được điều này thì tâm của con sẽ trở nên nhẹ nhàng và rộng mở hơn. Nếu con hoàn thành được kế hoạch thì điều đó là tốt. Và khi đó con nên nghĩ việc mình thành công như thế là do hồng ân của Đạo Sư và Tam Bảo. Nhưng nếu con không hoàn thành được như kế hoạch thì cũng không nên quá lo lắng. Nếu bám chấp vào một kết quả nhất định nào đó thì tâm con sẽ trở nên mê lầm và nếu mọi việc không xảy đến như mong đợi thì con đau khổ. Vì vậy con nên tiếp cận mọi hoạt động như Thầy đã nói ở trên.

Vậy mục đích của thiền định là gì? Chúng ta thiền định để duy trì chánh niệm và rồi cuối cùng để nhận ra được trạng thái bản nhiên của tâm. Vào giai đoạn đầu chúng ta tu tập pháp thiền chỉ, bởi đầu tiên những tư tưởng và khái niệm cần lắng dịu. Những tư tưởng này cũng giống như nước bẩn. Chúng ta mê lầm bởi vì chúng ta bám chấp vào tư tưởng. Đầu tiên sự mê lầm này cần phải lắng dịu giống như cặn bẩn trong nước lắng xuống. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể nhìn thấy bản chất thanh tịnh và chân thật của nước. Tương tự như vậy, khi những mê lầm và rối rắm lắng dịu thì chúng ta có thể nhận ra bản chất thanh tịnh của tâm. Đức Jigten Sumgon đã nói rằng “Tâm giống như hư không và các suy nghĩ giống như những đám mây trên bầu trời.” Cuối cùng, khi những suy nghĩ lắng dịu thì chúng ta sẽ nhìn thấy được bản tâm. Trong Ba Mươi Bảy Pháp Tu Của Bồ Tát, ở câu kệ thứ 29 có nói rằng “Hiểu được rằng phiền não bị tiêu trừ bởi thiền chỉ và thiền quán, hãy luyện tập chú tâm để siêu vượt bốn tầng thiền vô sắc. Đó là Pháp Tu Của Bồ Tát.” Điều này muốn nói đến thiền quán hay thiền minh sát và phương pháp thiền này được dựa trên cơ sở của thiền chỉ. Chúng ta phóng tâm lan man khi tâm không thể tĩnh lặng. Chúng ta luôn luôn nghĩ về điều gì đó, ví dụ những kinh nghiệm trong quá khứ. Nếu con có một kinh nghiệm đẹp trong quá khứ thì con cứ nghĩ đi nghĩ lại về nó và bám víu vào kinh nghiệm đó. Hoặc có thể điều gì đó tồi tệ đã xảy ra và rồi con lại cứ hay suy nghĩ về nó. Ví dụ có người nghĩ rằng cha mẹ họ đã hành hạ họ tồi tệ như thế nào trong quá khứ và đến tận giờ người đó vẫn còn tức giận với cha mẹ của mình. Hoặc mặc dù tuy không tức giận nhưng con có thể cứ tiếp tục suy nghĩ về những đau khổ trong quá khứ. Có khi người ta còn tự tử. Qúa khứ đã qua. Đôi lúc chúng ta lại nghĩ về tương lai và lên đủ thứ kế hoạch. Nhưng việc chúng ta có hoàn thành được các dự định và kế hoạch hay không thì không có gì đảm bảo, nó phụ thuộc vào nghiệp duyên của chúng ta và chúng ta không có nhiều sự lựa chọn về vấn đề này. Những người bình thường đưa ra rất nhiều kế hoạch và bám víu vào ý tưởng về việc hoàn thành các kế hoạch. Và để giúp mình đạt được kết quả đã đặt ra, họ liên tục nghĩ về nó, về việc làm thế nào để đạt được kết quả theo kế hoạch v.v. Và nếu cuối cùng không đạt được thì họ thất vọng và coi thường bản thân mình, nghĩ rằng họ là người thất bại và không tốt, rồi họ tức giận với chính bản thân mình. Nhưng thực ra vấn đề không phải là người đó không tốt hay không đủ năng lực, mà vấn đề ở đây là công đức và nghiệp của người đó. Nếu chúng ta không có đủ nghiệp duyên thì chúng ta sẽ không hoàn thành được nó. Nghiệp sẽ quyết định mọi thứ. Vì vậy không có lý do gì để tự hành hạ bản thân. Việc hành hạ bản thân mình là sự phóng tâm và mê lầm. Hiểu biết như thế làm cho tâm tĩnh lặng được trong giây phút. Mê lầm chính là sự bám chấp vào mọi suy nghĩ khởi hiện, bám chấp vào mọi suy nghĩ đã qua và nghĩ về tương lai, về những gì sẽ xảy ra. Chúng ta phóng chiếu tạo tác các suy nghĩ và tin rằng chúng là chân thực. Ví dụ “điều này hay điều kia sẽ đến” hay “nó sẽ là như thế và điều này cần phải được hoàn tất.” Chúng chỉ là những suy nghĩ mê lầm và làm cho tâm bị che chướng.

Khi con thực hành thì đừng lan man với quá khứ. Điều gì xảy ra trong quá khứ thì đã qua. Nó giống như giấc mơ. Hiện tại điều đó không tồn tại nữa và vì vậy nó không có bản chất tồn tại thực sự. Nó không thực sự tồn tại. Tương tự như thế, đừng hoạch định tương lai. Con vẫn cần lập kế hoạch công việc. Nhưng việc có hiện thực hoá được hay không còn phụ thuộc vào nghiệp của con. Con không nên nuôi bất kỳ hy vọng nào vào việc đạt được mọi thứ như kế hoạch đã lập. Nếu mọi việc được viên thành thì con nên nghĩ rằng “mọi việc viên thành là do bởi mình làm các thiện hạnh xuất phát từ tình yêu thương.” Vì vậy hãy hoan hỷ và càng có cảm hứng để trưởng dưỡng nhiều tình yêu thương hơn nữa. Và nếu mọi việc không mang lại kết quả tốt thì hãy suy nghĩ rằng đó là bởi con đã có những hành động xuất phát từ sự chấp ngã, đố kỵ, tức giận v.v. Đó cũng là nghiệp của con, là kết quả các hành động của chính con.

Chúng ta phải kiểm tra tâm mình xem liệu mình có trở nên mê lầm hay không. Khi quan sát tâm, hãy phân biệt giữa “đây là khoảnh khắc mê lầm” và “đây là khoảnh khắc không mê lầm”. Giả sử con đang ngồi trên xe ô tô chạy qua lại trên đường. Nếu con ngồi và thiền trên xe thì dù có hàng ngàn xe ô tô chạy qua con cũng không bám chấp vào chúng, tức là con không bị lôi cuốn bởi bất kỳ một chiếc xe nào. Chúng không làm ảnh hưởng đến con nếu không có sự bám chấp. Nhưng giả sử con nói với một ai đó là “hôm nay tôi phải tìm ra chiếc xe với biển số thế này.” Nếu con nói như vậy thì hẳn là một sự bám chấp, vì con phải theo dõi để tìm ra chiếc xe đó để làm sao không bị lỡ. Vì thế con sẽ cảm thấy rất mệt mỏi và đầu con sẽ quay cuồng, rồi con sẽ không tìm thấy chiếc xe. Đó là sai lầm của sự bám chấp.

Khi thực hành thiền chỉ, ai đó có thể nghĩ rằng “tôi cần phải trở nên vắng lặng mọi ý niệm”. Nhưng chính đây cũng là một suy nghĩ mê lầm. Chúng ta không cần thiết phải trở nên vắng lặng mọi ý niệm, nhưng chúng ta cần phải nhận ra được bản chất của các ý niệm khởi hiện. Vì vậy khi ý niệm khởi hiện lên trong tâm, khi bất kỳ điều gì xuất hiện trong tâm thì con cần phải nhận ra được các ý niệm đó. Khi con đã trở nên quen thuộc với thực hành này thì bất cứ thứ gì khởi hiện dù là sắc tướng hay âm thanh v.v. sẽ không ảnh hưởng đến con được nữa. Ví dụ khi không có bám chấp vào âm thanh thì trong các khóa tu đại thành tựu (drubchen) nếu giả sử con phải ngủ bên trong tu viện nơi mà âm thanh của các câu minh chú vang lên cả ngày lẫn đêm thì cũng không có vấn đề gì. Đôi lúc một số người không thể ngủ được vì họ bám chấp vào âm thanh. Khi chúng ta bám chấp vào âm thanh thì giả dụ khi có ai đó nói điều gì tốt đẹp với chúng ta thì chúng ta ưa thích, còn khi họ xúc phạm thì ta tức giận. Ví dụ ai đó bám chấp vào âm thanh có thể nói “tôi thực sự muốn đến nghe giảng nhưng thật không may, có một người tôi không ưa ở đó và vì vậy tôi không thể đến buổi giảng được.” Lỗi lầm ở đây là bám chấp vào người khác. Nếu người này không bám chấp vào điều gì cả thì sự hiện diện của người kia cũng không ảnh hưởng gì cả. Và thậm chí nếu người ta đổ lên đầu con cả trăm lời tranh cãi thì nó cũng sẽ không ảnh hưởng đến con, vì con biết được rằng “anh ta vẫn có Phật tính và hiện giờ thì chỉ tạm thời bị che chướng bởi vì cảm xúc ô nhiễm. Và rốt cuộc tôi cũng có những cảm xúc ô nhiễm như vậy.” Ngài Longchen Rabjam đã dạy trong Kho Tàng Các Giáo Huấn Cốt Tuỷ rằng: “Khi con nhận ra được bản chất hư huyễn của mọi thứ khởi hiện thì không cần thiết phải từ bỏ việc thụ hưởng những đối tượng của sự bám chấp.”

Khi chúng ta đã nhận ra rằng một hoạt động hoặc trải nghiệm là hư huyễn thì không có nguy hại gì trong việc thụ hưởng nó bởi vì chúng ta đã nhận ra được bản chất như nhiên của tâm. Khi con thực hành Trung Ấm Thiền Định, nếu con quan sát bản tâm và không chạy đuổi theo suy nghĩ về quá khứ hay tương lai.

Dòng thứ ba trong câu kệ gốc thứ ba có nói rằng chúng ta nên “An trụ trong trạng thái bao la không bám chấp hay tán loạn.” Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta chính tỉnh giác đã tham gia vào mọi hoạt động. Chúng ta nghĩ về đủ thứ cần phải làm, những suy nghĩ đó đến và đi, chúng không bao giờ ở lại. Dù rằng những suy nghĩ có mặt ở lúc đó hay không thì luôn luôn tồn tại một sự tỉnh giác và sự tỉnh giác này không bao giờ đi khỏi. Tâm thức dự định làm điều gì đó và chúng ta nghĩ về nó, vì vậy các suy nghĩ đến và đi. Nhưng nằm dưới những suy nghĩ đó là một giác tánh thấu suốt, một tâm tỉnh giác luôn luôn ở đó. Con nên nhận ra và duy trì sự tỉnh giác đó.

Nó vẫn chỉ là một tâm đó mà thôi. Tâm mà phóng chiếu ra bên ngoài và nhận biết một cách rõ ràng các đối tượng bên ngoài cũng chính là tâm tỉnh giác nhận biết tất cả các đối tượng. Khi con nhìn thẳng vào tâm tỉnh giác ấy và nhìn ra bản chất của nó, con sẽ nhìn thấy sự hợp nhất của tính Không và tính Sáng Tỏ, giống như hư không và không bao hàm vật chất. Mặc dù nó rỗng rang như hư không nhưng vẫn có một giác tánh sáng tỏ biết được bản chất trống không của chính nó. Trí huệ nhận chân ra được trạng thái bản nhiên của tâm được gọi là trí huệ nguyên sơ. “Nguyên sơ” bởi vì trí huệ đó đã luôn ở đó từ vô thủy, “trí huệ” vì nó thấu suốt tất cả. Khi sự tỉnh giác trở nên ổn định và luôn luôn được duy trì thì chúng ta đạt được trạng thái giác ngộ. Vì thế tinh yếu của Trung Ấm Thiền Định là duy trì ổn định sự tỉnh giác.

Dù làm bất cứ điều gì con nên duy trì sự tỉnh giác sáng tỏ không bị tán loạn, nên tập trung và cẩn trọng. Khi con đã trực nhận ra được tâm tỉnh giác của mình, con nên trì giữ tâm ấy. Bất kỳ khi nào con không giữ được tỉnh giác thì con sẽ không có chánh niệm. Nếu con chỉ thỉnh thoảng chánh niệm còn thỉnh thoảng không chánh niệm thì con sẽ mắc lỗi lầm trong một số hành động. Trạng thái thiếu tỉnh giác gọi là vô minh. Liên quan đến vấn đề nhận ra chân tâm thì có hai kiểu người. Có một số người biết cách tu thiền. Trong lúc họ thiền thì sẽ có thời điểm những ý niệm quá khứ đã dừng lại và ý niệm tương lai chưa sinh khởi. Khi họ nhìn thẳng được khoảng hư không giữa hai ý niệm thì họ có thể nhận ra chân tánh của hư không này một cách rõ ràng dù rằng chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Khoảng không giữa các ý niệm gọi là Đại Thủ Ấn. Nó là tánh Không thấu suốt tự nhiên, an trụ như hư không, bao la không giới hạn và trùm khắp, lan toả toàn bộ luân hồi và niết bàn. Tánh giác này nhận biết rõ bản chất trống không của nó. Trong Đại Nguyện Phổ Hiền Như Lai nói rằng “Nếu giác ngộ được [chân lý này] thì con là một vị Phật, nếu không giác ngộ được [chân lý này]thì con là một chúng sinh lang thang trong luân hồi.” Tánh giác này luôn luôn tồn tại, nó không bao giờ đi đâu hoặc ngừng hiện hữu. Đầu tiên con cần trực nhận ra được tánh giác đó và sau đó tiếp tục an trụ trong nó. Có một số người trực nhận ra được điều đó và sau đó có thể tiếp tục an trụ trong tánh giác đó mọi lúc không cần dụng công. Những người như thế được gọi là những bậc chứng ngộ tức thời.

Bản chất vô biên không hạn định thì giống như hư không, và khi con an trụ trong đó thì thậm chí con không cần nghĩ “mình cần phải thiền”. Hư không vẫn như nó là dù rằng chúng ta có dụng công thiền định về nó hay không. Nó siêu vượt đến và đi. Vì vậy không cần thiết phải dụng công thiền định về bản tánh này. Nó vô biên và siêu vượt mọi giới hạn. Có nhiều tri kiến giới hạn nhưng tất cả đều được bao hàm trong thuyết “vĩnh cửu” và “hư vô”, “chấp có” và “chấp không”. Bản tánh trống không hệt như hư không của tâm phá tan sai lầm của chấp có. Tánh giác sáng tỏ tự nhiên của tâm phá tan sai lầm của chấp không. Sự hợp nhất của tánh giác sáng tỏ và tánh Không như hư không thì được chính tâm biết rằng đó là ý thức tự giác. Bản tánh này được thể hiện dưới hình thức phối ngẫu (yabyum) của Đức Phật Phổ Hiền hay Kim Cương Trì. Hình tướng ấy muốn nói rằng: tâm là hợp nhất của tánh giác sáng tỏ và tánh Không, bản tánh của nó là đại hỷ lạc. Đó là đại lạc bất động hay bất chuyển đổi. Vì vậy bản tâm thì không chấp có và cũng không chấp Không. Vì con thật sự trực ngộ được bản tâm thì con sẽ tin tưởng vào việc mình đã nhận diện được bản tâm đó. Con sẽ biết rằng đây chính là chân tâm và không còn nghi ngờ gì nữa. Chư Phật quá khứ cũng đã nhận ra bản tâm theo cách này. Chúng ta cần trụ trong bản tâm đó, ngoài việc đó ra thì chẳng cần phải làm việc gì khác cả. Mặc dù suy nghĩ có khởi hiện thì cũng chỉ giống như những đợt sóng nhô lên trên nước và vì vậy chúng không thể tác động đến con bởi vì tánh giác đã tự an trụ. Và vì vậy khi đó mọi suy nghĩ và cảm xúc đều trở nên không còn sức mạnh nữa. Một số người không dễ gì có thể trực nhận ra được bản tánh này. Một số người thì có thể trực nhận ra nó nhưng chỉ nhìn được trong một khoảng thời gian ngắn rồi nó biến mất đi. Lý do là bởi vì họ đã không thực hành nhiều trong các đời quá khứ và vì vậy tâm của họ không thật sự sáng tỏ. Một số người thì cho rằng họ không hề nhìn thấy chân tâm. Lý do là bởi vì đối với những người này thì tâm của họ giống như sữa pha với nước và vì vậy họ không thể tin vào bản chất thanh tịnh của nước. Trong bốn ma vương thì đây là ma vương hoài nghi và đó là vô minh sâu dày nhất. Khi điều đó xảy ra thì hãy cố gắng từ bỏ những suy nghĩ ngờ vực và xác quyết rằng chân tâm chính là sự tỉnh giác hiện tiền siêu vượt mọi suy nghĩ lan man. Không cần phải có bất kỳ nghi ngờ gì về điều này vì tâm luôn luôn ở đó. Nó không bao giờ ở đâu khác. Vấn đề chỉ là chúng ta không tin tưởng vào điều này. Sai lầm này cần được xoá bỏ bởi vì tâm hiện diện ngay nơi này và ngay trong khoảnh khắc hiện tại, không có gì mới mẻ cần phải tìm kiếm. Vì thế đức Jigten Sumgon đã nói “Giờ đây ta biết rằng tâm mà ta chưa từng bao giờ rời xa – bản thân tâm ấy chính là vị Phật.” Phật chính là chân tâm của con. Do chúng ta không nhận ra được điều đó mà chúng ta lại không tin tưởng vào sự thật ấy. Chính vì vậy điều quan trọng là cần từ bỏ những mối ngờ vực và cần xác quyết rằng chính tâm siêu vượt mọi bám chấp ấy là chân tâm.

Chúng ta nghi ngờ về chân tâm bởi vì chúng ta tin rằng những nhận thức của mình và các ý tưởng về những nhận thức đó là chân thực. Không hiểu được bản chất thực sự của vạn pháp, chúng ta bám chấp vào sự hiện hữu của các đối tượng xuất hiện và coi chúng là thực. Chúng ta tin rằng đây chính là cách mọi thứ tồn tại, rằng ta và người thật sự tồn tại độc lập. Phương thuốc đối trị sự mê lầm này là thực hành giai đoạn sinh khởi và viên thành.

Dòng thứ tư trong kệ Trung Ấm Thiền Định chỉ ra các thực hành căn bản để giúp cho chúng ta đạt được sự thuần thục, vì chúng ta nỗ lực để trở nên “kiên định trong hai pháp tu: quán tưởng [sinh khởi] và viên thành.” Mục đích và lợi ích của việc thực hành giai đoạn sinh khởi, của việc quán tưởng là gì? Có rất nhiều lợi ích và mục đích. Một trong các lợi ích là Pháp tu quán tưởng trong giai đoạn sinh khởi giúp tịnh hoá sự chào đời. Chúng sinh được sinh ra theo bốn cách: thông qua thai mẹ [thai sinh], thông qua trứng [noãn sinh] , được sinh ra một cách kỳ diệu [hoá sinh], hay thông qua hơi ẩm và nhiệt [thấp sinh]. Vì vậy có bốn hình thức thực hành giai đoạn sinh khởi tương ứng. Mục đích của thực hành giai đoạn sinh khởi là để tịnh hoá bốn cách sinh ra này. Tóm lại thông qua thực hành giai đoạn sinh khởi chúng ta giảm thiểu sự bám chấp vào thực tại vật chất, giảm thiểu bám chấp coi các hiện tướng là chân thực. Để thể hiện tánh Không, trong nhiều nghi quỹ thực hành chúng ta trì tụng minh chú “om svabhava shuddha sarva dharma svabhava shuddho ham.” Câu minh chú thể hiện bản chất chân thật của vạn pháp trong luân hồi và niết bàn như chúng thực sự là. Bản chất của vạn pháp là gì? Những đối tượng bên ngoài xuất hiện – đó là vũ trụ và chúng sinh – nhưng mọi thứ sinh khởi và hiện hữu đều do tâm tạo. Nó được tạo ra bởi nghiệp và tập khí bên trong của tâm giống như tảng băng tạm thời. Những đối tượng được tạo ra đó là giả hợp và vì thế có bản chất vô thường. Nó sẽ không tồn tại mãi mãi mà rồi sẽ phải chịu tan rã. Và khi chúng ta nhìn vào chủ thể đã tạo ra tất cả, tức là nhìn vào tâm, thì chúng ta thấy tánh Không hay tánh rỗng rang hệt như hư không. Hiểu được điều này thì sự bám chấp vào các quan niệm coi chúng là thực chất sẽ giảm thiểu. Vậy chúng ta nhìn vạn pháp theo cách nào? Chúng ta nhận biết các đối tượng hiện hữu nhưng nhìn thấy chúng như là cầu vồng chỉ tồn tại nhất thời, như ảo tưởng, hay như đám mây. Vào giai đoạn đầu, chúng ta cần luyện tập tâm mình với một tri kiến thanh tịnh liên quan đến vũ trụ bên ngoài và các chúng sinh bên trong. Vũ trụ bên ngoài bao gồm năm yếu tố hay ngũ đại và ngũ đại này thực ra chính là những phóng chiếu của năm trí huệ. Nhìn theo góc cạnh không thanh tịnh thì tâm chúng sinh đầy năm loại cảm xúc ô nhiễm. Nhưng nếu chúng ta phát khởi được Bồ Đề Tâm thì năm loại cảm xúc ô nhiễm trở thành năm trí huệ. Năm nguyên tố hay ngũ đại chính là sự toả rọi của năm trí huệ này, là sự phản chiếu của năm trí huệ. Nếu con hiểu được điều này thì con có thể trưởng dưỡng tri kiến thanh tịnh. Trong thực hành giai đoạn sinh khởi, có cả khía cạnh tuyệt đối trong việc nhận ra tính bình đẳng của mọi đối tượng hiện hữu. Ở mức độ tương đối chúng ta nói về đại thuần tịnh, còn ở mức độ tuyệt đối chúng ta nói về đại bình đẳng. Đây là mục đích của thực hành giai đoạn sinh khởi. Khi chúng ta thuần thục trong thực hành giai đoạn sinh khởi, cho dù là con đang thực hành vị Bổn Tôn nào đi chăng nữa, nếu tâm con không bao giờ tách rời khỏi vị Bổn Tôn – tức là nếu sự yêu kính và thành tín Bổn Tôn luôn ở trong tâm con và con không bao giờ quên Ngài – thì trước hết ở mức độ tạm thời, mọi bệnh tật thuộc về thân thể và các chướng ngại bên ngoài khác có thể được đẩy lùi. Đó là vì khi con tu tập pháp Bổn Tôn thì chấp ngã trong con sẽ giảm thiểu; mọi bệnh tật, chướng ngại và khó khăn của chúng ta đều bắt rễ từ sự chấp ngã. Khi chúng ta nghĩ về Bổn Tôn thì chúng ta là Bổn Tôn và không còn là cái tôi phàm tục nữa. Nếu không có cái tôi hay bản ngã thì sẽ không có những trổ quả của nghiệp liên quan đến bản ngã đó – mọi vấn đề đều xuất phát từ nghiệp. Vì vậy khi chúng ta tu tập pháp Bổn Tôn thì tạm thời chúng ta có thể vượt qua được các hình thức khổ đau bên ngoài, bệnh tật, cơ cực, hãm hại của tà thuật, ma thuật v.v. Hơn nữa chúng ta thu nhận được khả năng để giúp đỡ người khác. Và trong tương lai khi chúng ta trong giai đoạn thân trung ấm, nếu chúng ta có thể nhớ được vị Bổn Tôn thì chúng ta sẽ trở thành Ngài. Vì vậy trước khi chết chúng ta nên luôn luôn thực hành pháp Bổn Tôn với sự sáng tỏ. Có một số hành giả thậm chí còn đạt được thân cầu vồng khi chết. Nhưng dù rằng chúng ta chưa đạt được như vậy thì ít nhất cũng đừng bao giờ quên Bổn Tôn. Nếu [tâm] chúng ta luôn không bao giờ tách rời Ngài thì sau khi chết, chúng ta sẽ hoà làm một với Ngài, giống như một ngọn đèn bơ này mồi sang ngọn đèn bơ khác hay một ngọn lửa nhập vào với ngọn lửa khác. Thông qua công đức của Phật tánh và Bồ Đề Tâm thì việc hoà nhập làm một với Bổn Tôn là điều có thể. Vì khi chúng ta trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm thì chấp ngã sẽ giảm thiểu và ở góc độ Phật tánh thì Phật tánh của chúng ta cũng hoàn toàn giống hệt của Ngài. Vì thế Bổn Tôn trí huệ (wisdom being) và Bổn Tôn mật nguyện (samaya being) là một từ vô thuỷ. Do đó thực hành pháp Bổn Tôn sẽ mang lại cả lợi ích tạm thời và tối hậu.

Khi chúng ta thực hành giai đoạn sinh khởi Bổn Tôn và quán tưởng Bổn Tôn thì có ba phẩm tính cần có trong giai đoạn này: 1) sáng tỏ, 2) tự hào thánh thiện, 3) thanh tịnh.

Thứ nhất là tính sáng rõ. Những người có tỉnh giác nhạy bén có thể quán tưởng hình ảnh Bổn Tôn rõ ràng. Ngoài ra khi con càng trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm, tình yêu thương và lòng từ bi thì Bổn Tôn càng xuất hiện sáng rõ. Vị Bổn Tôn có thể xuất hiện rất sáng rõ đối với một số người. Hình tướng xuất hiện có bản chất trống không và sáng rõ một cách tự nhiên. Đó là về tính sáng rõ – hình tướng Bổn Tôn khởi hiện lên một cách rõ ràng.

Thứ hai là tự hào thánh thiện. Vị Bổn Tôn khởi hiện trong tâm con, không hề ở đâu khác ngoài tâm con – con thực sự là Bổn Tôn. Khi con quán tưởng Bổn Tôn thì hãy quán tưởng một cách trực tiếp. Đừng có nghĩ ngợi về bất cứ điều gì. Đừng nghĩ về điều này hay điều kia, về ta hay người, thậm chí cũng đừng nghĩ ngợi này nọ về Bổn Tôn. Không tạo tác khái niệm, thay vào đó hãy trực tiếp làm Bổn Tôn xuất hiện trong khoảng hư không trong tâm con. Nếu con khởi hiện Bổn Tôn trong dòng tương tục của tâm yêu thương và bi mẫn và không hề có bất kỳ ý nghĩ nào khác, thì con sẽ thấy Bổn Tôn thực sự hiện hữu như thế nào trong tâm con. Ngài xuất hiện giống như bông hoa mọc lên trong tâm con. Khi con quán tưởng Bổn Tôn thì đầu tiên con nên phát khởi một động lực vị tha, ước nguyện làm lợi lạc cho chúng hữu tình. Thực sự thì chính tâm nguyện đó là Bổn Tôn chân thực. Từ nguyện lực đó, vị Bổn Tôn xuất hiện trong hình tướng sáng rõ và rỗng rang giống như cầu vồng. Đó là Bổn Tôn chân thực, con nên tin tưởng vào điều này. Quán tưởng sắc tướng sáng rõ của Bổn Tôn chỉ là điều phụ. Điều quan trọng hơn nhiều là con cần phải có niềm tin tâm con thật sự là Bổn Tôn – đó là khía cạnh quan trọng nhất của thực hành giai đoạn sinh khởi.

Phẩm tánh thứ ba là thanh tịnh. Chúng ta nhớ lại phẩm tính thanh tịnh của tâm Bổn Tôn. Khi chúng ta quán tưởng Bổn Tôn thì Ngài có nhiều khía cạnh như màu sắc, đồ trang sức và tất cả đều tượng trưng cho các phẩm tánh bên trong tâm Bổn Tôn. Ví dụ các vị Bổn Tôn an bình có mười ba trang sức. Các vị Bổn Tôn phẫn nộ có tám trang sức bằng xương. Tất cả các trang sức này đều biểu trưng cho các phẩm tánh giác ngộ. Ví dụ trang sức vương miện với Ngũ Bộ Phật tượng trưng cho việc chuyển hoá năm cảm xúc ô nhiễm thành năm trí huệ. Bốn chân tượng trưng cho Tứ vô lượng tâm. Mỗi một khía cạnh của Bổn Tôn – những thành phần tạo nên Bổn Tôn – đều tượng trưng cho một phẩm tánh giác ngộ trong tâm Ngài. Đây là những phẩm tánh chúng ta cần ghi nhớ.

Tóm lại, chúng ta đã nói về ba khía cạnh của giai đoạn sinh khởi: sáng rõ, tự hào thánh thiện và thanh tịnh. Trong ba khía cạnh này thì quan trọng nhất là niềm tự hào nghĩ rằng “ thật sự thì tôi chính là Bổn Tôn.” Đây là điều quan trọng nhất. Với sự tỉnh giác đó con thực hành hợp nhất giai đoạn sinh khởi và giai đoạn viên thành. Con cần phải thực hành cho quen thuộc đến khi con trở nên vững chắc trong pháp tu. Một lần xưa kia, khi ngài Drukpa Kunlek đi đến thăm bức tượng Phật Jowo ở Lhasa, ngài đảnh lễ tượng Phật Jowo và nói rằng “ban đầu Ngài và con là một không khác. Nhưng vì lười biếng mà con vẫn còn đang lang thang trong luân hồi. Còn Ngài, bằng sự tinh tấn, đã đạt tới giác ngộ. Giờ đây con đảnh lễ Ngài – hỡi đức Phật Thích Ca Mâu Ni.” Sự khác nhau giữa Bổn Tôn và chúng ta nằm ở tâm nguyện.

Khi chúng ta đạt được sự ổn định trong thực hành giai đoạn viên thành thì cũng tương tự như việc nhận ra tánh sáng tỏ ở giai đoạn ngủ sâu. Và nếu nhận ra được điều này thì chúng ta đạt giác ngộ trong trung ấm đầu tiên, tức là đạt được giác ngộ trong Pháp thân. Vì vậy việc thực hành giai đoạn viên thành giúp tịnh hoá cái chết, còn thực hành giai đoạn sinh khởi giúp tịnh hoá việc chào đời, Liên quan đến giai đoạn sinh khởi, Đạo Sư Dharmaradza của dòng truyền thừa Drikung đã nói rằng “Nếu nhận ra được rằng mọi thứ khởi hiện và tồn tại đều là Bổn Tôn thì đó chính là giai đoạn sinh khởi hoàn hảo của Mật Thừa.” Vì vậy dù rằng chúng ta đã thuần thục trong thực hành giai đoạn sinh khởi hay chưa thì chỉ hiểu được bản chất của vạn pháp đã là một lợi lạc không thể nghĩ bàn. Chân tánh của vũ trụ và tất cả chúng sinh thì thanh tịnh tự bản chất. Dù rằng vũ trụ bên ngoài có bao la đi thế nào chăng nữa thì nó cũng được bao hàm trong năm yếu tố và năm yếu tố lại là các hoá hiện của Chư Phật. Năm yếu tố chính là năm vị Phật mẫu hay năm vị Không-hành-nữ (Dakinis). Dù có tồn tại bao nhiêu chúng sinh đi chăng nữa thì họ đều có các cảm xúc ô nhiễm. Tất cả các chúng sinh dù là hữu hình hay vô hình đều có chung các cảm xúc ô nhiễm và đều sở hữu Phật tánh. Không có chúng sinh nào lại không có Phật tánh, vì tất cả đều có tâm thức. Vũ trụ bên ngoài được thể hiện trong thân một con người. Thân một người là đại diện thu nhỏ của vũ trụ bên ngoài và tâm của một người là đại diện thu nhỏ của tất cả chúng sinh ở trong vũ trụ đó. Vì thế cả vũ trụ và tất cả chúng sinh đều được thể hiện đầy đủ trong thân và tâm của một người. Tạm thời thì chúng sinh tạo ra luân hồi do bởi sự chấp ngã. Không một chúng sinh nào lại không có Phật tánh. Do vậy bất kỳ thứ gì xuất hiện và tồn tại đều có bản tánh của Ngũ Bộ Phật và các vị Phật mẫu. Nhận ra được điều này con có thể xua tan sự bám chấp nhị nguyên, bám chấp vào suy nghĩ phân biệt thanh tịnh và bất tịnh, tốt và xấu v.v. Khi ấy tâm sẽ trở nên rất rộng mở và bao la. Khi chúng ta càng bám chấp thì chúng ta càng khuấy lên cặn bẩn và quan niệm mọi thứ theo cách bất tịnh. Vì thế đức Phật đã dạy rằng “Hoàn toàn thuần phục tâm mình.” Khi con đã thực sự nhận ra được chân tâm của mình, con sẽ thấy rằng về nền tảng thì mọi chúng sinh – dù xuất hiện và tồn tại dưới hình thức này – đều hoàn toàn thanh tịnh. Khi đã hiểu được như thế thì giả dụ khi nhìn thấy một con rắn độc, con sẽ nghĩ rằng nó xuất hiện dưới hình tướng con rắn chẳng qua chỉ do nghiệp duyên tạm thời của nó. Nhưng chân tâm thì không khác, vẫn là Phật tánh. Khi đó thì bám chấp vào những quan niệm về con rắn sẽ giảm thiểu. Con sẽ hiểu được rằng nó chẳng qua là phản chiếu của những cảm xúc ô nhiễm tạm thời. Hiểu được điểm này là một việc rất quan trọng. Nếu con hiểu được bản tánh thanh tịnh của vạn pháp thì con có thể trưởng dưỡng lòng sùng mộ thậm chí đối với cả năm nguyên tố. Nếu con có cái nhìn thanh tịnh đối với các nguyên tố – chẳng hạn như đối với nước và thậm chí có lòng sùng mộ đối với nước – thì năng lực và sự gia trì nhận được sẽ rất lớn. Vì vậy việc thực hành thuần thục giai đoạn sinh khởi là cần thiết và lợi lạc.

“Hai loại thực hành” chính là thực hành giai đoạn sinh khởi và giai đoạn viên thành. Khi con có được sự ổn định trong thực hành giai đoạn sinh khởi thì tất cả các suy nghĩ và quan niệm tầm thường và bất tịnh sẽ không xuất hiện, chúng sẽ biến mất. Trong giai đoạn viên thành thì [hành giả]  không bám chấp vào các hiện tướng huyễn hoá. Mọi thứ vẫn xuất hiện, con vẫn nhìn thấy chúng, nhưng không khởi lên suy nghĩ rằng chúng là hiện thực, là thực sự tồn tại. Mọi thứ khởi hiện hệt như một sự huyễn hoá. Mặc dù suy nghĩ và cảm xúc xuất hiện nhưng chúng sẽ biến mất lúc sinh khởi, khi con duy trì được sự ổn định trong giai đoạn sinh khởi và viên thành.

Thực hành giai đoạn viên thành giúp tịnh hoá cái chết. Khi chúng ta chết thì mọi thứ đều tan hoại, nguyên tố này tan vào nguyên tố kia giống như trong giai đoạn viên thành. Đầu tiên, nguyên tố đất tan vào nguyên tố nước, sau đó nước tan vào lửa, lửa tan vào gió, gió tan vào thức. Đó là quá trình tan hoại ở mức độ thô nặng. Cuối cùng hơi ấm sinh lực sẽ rời khỏi cơ thể. Khi con đã thực hành ổn định giai đoạn viên thành thì thỉnh thoảng một cách tự nhiên con sẽ có được linh kiến rõ ràng về vị Bổn Tôn, và trong khoảnh khắc tiếp theo con an định tâm mình trong trạng thái bản nhiên của nó. Nó trở nên rỗng rang, hoàn toàn rỗng rang tựa như hư không, chỉ thông qua năng lực của sự tỉnh giác chánh niệm. Con tiếp tục an trụ trong bản tâm, đó là giai đoạn viên thành tối thượng.

Mục đích của thiền định được nói ngắn gọn trong dòng thứ năm và thứ sáu của câu kệ thứ ba “Trong thời thiền này với sự nhất tâm siêu vượt hoạt động, con sẽ không để sức mạnh của những cảm xúc mê lầm sai xử con.” “Siêu vượt hoạt động” có nghĩa là mặc dù chúng ta tham gia vào các hoạt động khác nhau, đồng lúc chúng ta cũng nhận ra rằng vạn pháp trong luân hồi và niết bàn đều không có sự hiện hữu chân thật: chúng vô thường và không có bất kỳ thực chất nào cả. Vì thế không bám chấp vào việc cần đạt được thứ này thứ kia. Không bám chấp vào bất kỳ chân lý nào. Chúng ta vẫn tham gia các hoạt động khác nhau nhưng không có hy vọng hay lo lắng về kết quả của các hoạt động này.

Kết thúc câu kệ thứ ba này là lời nguyện “không bị sai xử bởi những cảm xúc mê lầm.” Thỉnh thoảng do những nguyên nhân tạm thời xuất hiện mà những phiền não mãnh liệt có thể sinh khởi và chúng ta lại bám chấp coi chúng là thực có. Chúng ta nghĩ về chúng và bám chặt vào các cảm xúc này. Sau đó suy nghĩ này nối tiếp suy nghĩ kia, rồi cảm xúc phát triển mạnh hơn và chuyển thành trạng thái tâm mê lầm. Khi chúng ta đã để đến trạng thái này thì sẽ khó vượt qua. Chính vì thế việc nhận ra được mọi ý niệm vi tế là điều quan trọng. Ít nhất khi nhận biết được rằng đang có các ý niệm như thế thì cũng tạm đủ. Nếu chúng ta thật sự nhận ra chúng bằng sự tỉnh giác nhạy bén thì chúng sẽ sụp đổ. Chỉ khi nào chúng ta không có đủ sự tỉnh giác thì mới bị sai xử bởi những suy nghĩ như thế, khi đó tâm ta bị che chướng và bất tịnh. Nếu chúng ta không quen thuộc với sự tỉnh giác này thì dù có thể chúng ta trực nhận được bản tâm trong chốc lát, nhưng sự tỉnh giác cũng không đủ mạnh để vượt qua các cảm xúc ô nhiễm. Vì vậy điều thiết yếu là cần duy trì và không bao giờ xa rời sự chánh niệm. Nếu con duy trì được chánh niệm thì ý niệm vẫn sẽ khởi hiện nhưng ngay khi chúng khởi hiện thì chúng cũng sẽ biến mất. Ngoài ra có nhiều loại ý niệm khác nhau. Có những ý niệm thuộc loại thường phàm và không được nhận ra, cũng có những ý niệm được nhận biết. Những ý niệm thường phàm là những ý niệm sinh khởi không hề có chánh niệm. Vì vậy chúng ta không hề nhận ra những ý niệm đó của chính mình. Đó là những ý niệm thường phàm và không được nhận ra. Nếu con có được một mức độ chánh niệm nào đó thì một ý niệm sinh khởi, mặc dù con không thể để nó biến mất đi nhưng ít nhất lúc đó cũng có mặt một mức độ tỉnh giác nhất định. Trong trường hợp này thì ít nhất ý niệm [được nhận ra đó] cũng không phải là ý niệm thường phàm. Có thể con vẫn tạo bất thiện nghiệp nhưng ít nhất sẽ có sự ăn năn. Và cuối cùng thì thông qua quá trình thực hành để thuần thục sự chánh niệm, các tư tưởng sẽ sụp đổ. Sự sụp đổ mọi bám chấp được gọi là “chuyển hoá cảm xúc ô nhiễm thành trí huệ”. Ví dụ khi sân hận sinh khởi và con nhận ra được điều này, thì đầu tiên con biết được sân hận là không tốt, rồi dần dần sự sân hận sẽ sụp đổ. Tánh giác nhận ra được lỗi lầm của sân hận chính là sự tan biến sân hận và tánh giác đó được gọi là trí huệ như gương [đại viên cảnh trí]. Nếu con có thể loại trừ được cảm xúc ô nhiễm theo cách này thì tức là trí huệ của con đã được tăng trưởng. Sự tỉnh giác trí huệ đó giống như lửa và các suy nghĩ thì giống như củi. Khi con thực hành tỉnh giác, suy nghĩ vẫn có thể xuất hiện nhưng chúng sẽ tan biến ngay khi chúng vừa xuất hiện. Sự tỉnh giác này chính là điều chúng ta nên thuần thục. Tóm tắt về Trung Ấm Thiền Định  như sau: khi nhận ra rằng vạn pháp trong luân hồi và niết bàn có bản chất hư huyễn thì chúng ta sẽ trưởng dưỡng chánh định vô uý bởi vì không còn lo sợ nào nữa. Nếu không còn chấp ngã và không còn bám chấp vào các hiện tượng thì sẽ không còn lo sợ. Và nếu không còn lo sợ thì sẽ không còn những suy nghĩ luyến ái hay ghét bỏ. Khi đó Phật tánh sẽ không còn bị che chướng nữa. Đó là sự chứng ngộ chánh định kim cang hay chứng ngộ Phật tánh siêu vượt sinh tử. Trong Đại Nguyện Phổ Hiền Như Lai có nói “Cho dù cả ba cõi có bị tiêu huỷ thì cũng không lo sợ. Không có sự bám luyến vào ngũ dục giác quan. Hãy an trụ trong tánh giác bản nhiên vô niệm.” Đó chính là phẩm tánh cần đạt đến trong Trung Ấm Thiền Định.

Đức Milarepa đã hát bài đạo ca để đáp lại sự thỉnh cầu của cô gái Paldarbum (trong Một Trăm Ngàn Ngọn Cờ Vinh Quang) trong đó có đoạn: “Những cuộc đời tương lai sẽ tối tăm hơn cuộc đời này, vì thế con cần chuẩn bị cho mình một ngọn đuốc. Nếu con không chuẩn bị ngọn đuốc thì sẽ không có ánh sáng để giúp con tìm ra con đường.” Nếu giờ đây con không nhận ra được tinh tuý của tâm thì sau này những hiện tướng đến trong thân trung ấm sẽ là những hiện tướng tối tăm. Nếu con trải qua cuộc đời mình trong sự tối tăm của tâm thì giai đoạn trung ấm sẽ thật khủng khiếp. Tính chất của vô minh là tối tăm và vì vậy nó được gọi là bóng tối của sự mê lầm. Khi con nhận ra được chân tâm mình thì con sẽ tìm thấy con mắt tịnh quang siêu phàm. Khi tâm trong trẻo thì chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng bất kỳ phiền não và tư tưởng nào phát sinh. Đây là tịnh quang. Nếu con thuần thục được tịnh quang này thì nó sẽ luôn toả sáng. Đức Maitreya  đã nói rằng “Từ vô thuỷ thì tự chân tâm vẫn luôn toả sáng.”

Đức Garchen Rinpoche

Trích: Giáo huấn về Trung ấm – Một chỉ dẫn để đi trong Luân Hồi hay đạt đến Niết Bàn

Cố vấn xuất bản: Dorzin Dhondrup Rinpoche

Phiên dịch Tạng – Anh: Ina Dhargye

Việt dịch: Trần Lan Anh

Hiệu đính: Thanh Liên