Dharmakāya

Bản ngã làm nên khổ đau

Tất cả chúng ta đều lo buồn; rất nhiều chúng sinh hữu tình thường xuyên khốn khổ. Tuy nhiên, ngay tại đây và bây giờ, chúng ta có thời giankhông gian và năng lực để suy nghĩ cách từ bỏ khổ đau – không phải chỉ là vượt qua một vấn đề hoặc trở nên yên bình hơn, mà là hoàn toàn chấm dứt khổ đau.

Con người chúng ta có rất nhiều phương pháp tìm kiếm hạnh phúc cho mình nhưng ngay cả khi sống trong một căn nhà đầy đủ mọi thứ chúng ta vẫn cảm thấy không thỏa mãn. Đó là bởi vì chỉ có một thứ duy nhất có khả năng xóa bỏ sự bất thỏa mãn và mang lại hạnh phúc thực sự: đó chính là thực hành Pháp.

Nếu chúng ta kiểm lại bên trong chính mình, chúng ta sẽ khám phá ra rằng tất cả bất hạnh của chúng ta đến từ bám luyến hoặc sân hận. Những thứ này thì lại đến từ cái thấy không đúng về bản ngã. Ngay tại giây phút này, chúng ta vẫn coi “Tôi” là một điều rất thật. Trong Nhập Trung Đạo, Chandrakirti phát biểu rằng tất cả khổ đau cảm xúc khởi sinh từ vô minh – hiểu sai về bản tánh của ngã. Đây chính là cội rễ. Để từ bỏ mọi cành nhánh của khổ đau và ngăn ngừa chúng quay trở lại thì chúng ta cần chặt bỏ từ gốc rễ. Bằng cách đó chúng ta chấm dứt khổ đau ngay cả sanh, bệnh, già và chết.

Những giáo lý chính của đức Phật để xóa bỏ vô minh bằng cách hiểu rõ và quán chiếu trí huệ tánh Không được ghi lại trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamita), và những đoạn văn này là nguồn biên soạn chính của ngài Long Thọ trong tác phẩm Sáu Mươi Kệ Tụng Biện Luận Lý Tính Duyên Khởiđặc biệt là Luận Trung Quán (Mulamadhyamakakarika). Những lời dạy khác về trí huệ quán chiếu tánh Không có thể tìm thấy trong tác phẩm Bốn trăm bài tụng của ngài Thánh Thiên (Aryadeva); tác phẩm Luận về Trung quán của ngài Phật Hộ (Buddhapalita); tác phẩm Minh Cú Luận của ngài Nguyệt Xứng (Chandrakirti) và chương thứ chín trong tác phẩm Con Đường Bồ Tát Hạnh của ngài Tịch Thiên.

Điểm cốt tủy của tất cả các kỹ thuật được miêu tả trong các bản văn trên và các ghi chú khác nhằm phát triển một hiểu biết về tánh Không của tự ngã là một phương pháp được gọi là “Bốn điểm cốt yếu” hay “Bốn chiếc chiếc chìa khóa”. Những điểm này cung cấp một cách tiếp cận rất hiệu quả đến tánh KhôngChúng ta bắt đầu bằng cách áp dụng bốn phương pháp phân tích này để đạt được hiểu biết về vô tự tánh của con người (vô ngã) và sau đó dùng chúng để đạt được hiểu biết về vô tự tánh của hiện tượng (vô pháp).

ĐIỂM CỐT YẾU ĐẦU TIÊN

Chiếc chìa khóa đầu tiên là “xác quyết đối tượng cần được tiêu trừ”. Chúng ta không thể quán chiếu tánh Không mà đầu tiên còn không biết cái gì là rỗng không. Tánh Không không phải chỉ là hư vô mơ hồ. Điểm đầu tiên này giúp chúng ta hiểu cách bản ngã giả tạm – đối tượng cần bác bỏ và tiêu trừ – tồn tạiChúng ta cần nhận ra cách mà chúng ta xem cái “Tôi” là một tồn tại riêng rẽ, như thể nó độc lập khỏi tổng hòa thân và tâm này. Cái “Tôi” xuất hiện như kiểu đã được hình thành đầy đủ, tự tồn tại và kiểu tồn tại này thì không có vẻ bị tác động bởi những phóng chiếu của tâm.

Cách mà chúng ta níu giữ và tin rằng cái “Tôi” tồn tại trở nên đặc biệt rõ ràng khi chúng ta giận dữ hoặc sợ hãi. Vào những lúc đó, chúng ta nên phân tích cách mà bản ngã xuất hiện trong tâm cũng như cách mà tâm diễn giải nó. Chúng ta có thể khơi gợi những cảm xúc này trong khi thiền định và trong lúc duy trì chúng, sử dụng một phần tinh tế của thức của mình để nhận ra cách chúng ta tiếp tưởng về cái “Tôi”.

Để bắt được kẻ trộmtrước tiên chúng ta phải biết hắn là ai và hắn trông như thế nào. Kẻ trộm lớn nhất chính là tri kiến sai lầm về bản ngã – khái niệm cho rằng ko chỉ bản thân ta mà tất cả sự vật hiện tượng đều thật sự tồn tạiChúng ta tin rằng sự vật hiện tượng thật sự tồn tại theo cách mà chúng xuất hiện đến các giác quan của chúng ta, cũng như chúng cũng tự tồn tại hết sức khách quan. Điều này, khi đó chính là điều chúng ta cần biết để tóm được kẻ đã trộm mất hạnh phúc và an lạc của mình.

Nếu chúng ta không nhận ra được khái niệm sai trái này mà vẫn đi vòng quanh và hô to “tánh Không, tánh Không” chúng ta sẽ dễ rơi vào một trong hai thái cực của đoạn kiến hoặc  thường kiến – tin rằng hoặc mọi thứ tự tồn tại hoặc chẳng có gì tồn tại cả, do vậy tiếp tục phóng đại hoặc chối bỏ hiện thực vốn có.

Do đó, chúng ta phải nhận ra bản ngã giả tạm này chính là đối tượng cần bác bỏ trước khi thực hành bác bỏ và loại trừ nó. Đây là bước khởi đầu trong việc phát triển hiểu biết về tánh Không và nền tảng để quán chiếu tánh Không. Đầu tiên chúng ta phải tìm kiếm bản ngã giả tạm chứ không phải không có bản ngã. Điều này đòi hỏi phải thực hành thật tinh tấn.

Để việc thực hành tánh Không được được hiệu quảchúng ta trước hết cần chuẩn bị tâm bằng cách tịnh hoá uế trược (tiêu cực) và tích tập công đức. Cốt tủy của tịnh hoá và hình thành công đức là thực hành bảy điểm bao gồmlễ lạycúng dườngsám hốitùy hỉthỉnh cầu và hồi hướngChúng ta cũng có thể thực hành những nghi quỹ ban đầu như cúng dường mười vạn mạn đà latrì chú Kim cương tát đỏa…

Khi chúng ta bắt đầu quán sát được bản ngã giả tạm – bản ngã mà chúng ta theo thói quen cho rằng tồn tại trong mỗi con người, mỗi sự vật hiện tượngbiểu lộchúng ta sẽ thật nhanh chóng nhận ra rằng nó chẳng hề tồn tại. Trước khi gặt hái được nhận thức này, cái “Tôi” trông rất thật, rất cụ thể. Nhưng ngay khi chúng ta bắt đầu kiểm tra thì lại chẳng thấy nó đâu cả. Nó biến mất. Nếu cái “Tôi” thật sự tồn tại thì càng tìm kiếm chúng ta càng phải thấy nó rõ hơn chứ? Hoặc ít ra phải thấy được nó. Nếu không thể tìm thấy thì làm sao nó tồn tại được?

Geshe Ngawang Dhargyey