18198745_424381751252281_8779958427416118327_n

Aputtaka-sutta Sự Giàu có của một người Keo kiệt

Có một lần khi Đấng Thế Tôn ngụ tại thành   Xá-vệ   (Sâvatthi)   thì   vào   một buổi  chiều, đức  vua  Pasenadi  của  xứ Kiêu-tát-la   (Kosala)   thân   hành   đến viếng  thăm  Ngài.  Vua  Pasedani  tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi sang  một  bên.  Đấng  Thế  Tôn  cất  lời hỏi vua Pasedani như sau:

Này  đại  vương,  ngài  mới  đến  đấy  à. Thế lúc trưa này ngài ở đâu?

Vua Pasenadi đáp lại như sau:

– Bạch Thế Tôn, tại thành Xá-vệ này có một  người  thật  giàu  có  vừa  qua  đời. Hắn  chết  mà  lại  không  có  con  [thừa kế].  Sau  khi  đem  hết  của  cải  của  hắn xung  vào  ngân  khố  hoàng  gia  thì  tôi đến  đây:  [của  cải  của  hắn]  gồm  tám triệu  đồng  tiền  vàng,  và  số  tiền  bằng bạc    thì    nào    có    đếm    xiết    được. Thếnhưng, Bạch Thế Tôn, lúc còn sống thì  hằng  ngày  bữa  ăn  của  người  giàu có  ấy  chỉ gồm  có  một  cái  bánh  làm bằng  đậu  khô  để  ăn  kèm  với  cháo. Quần áo thì vỏn vẹn chỉ có một tấm vải dệt bằng chỉ gai đủ quấn được hơn nửa thân người. Phương tiện di chuyển của hắn là một chiếc xe bò cũ kỹ, nóc lợp bằng rơm.

Đức Phật bèn bảo rằng:

Đúng đấy, này đại vương, cũng có thể xảy  ra  như  thế  được.  Một  người  keo kiệt  vơ  vét  được  một  gia  tài  kếch  xù, không  dám  tiêu  xài  để  mang  lại  niềm hân hoan và thích thú cho riêng mình. Hắn  không  dám  tiêu  xài  để  mang  lại niềm  hân  hoan  và  thích  thú  cho  cha mẹ.  Hắn  không  dám  tiêu  xài  để  mang lại niềm hân hoan và thích thú cho gia đình. Hắn không dám tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho tôi tớ trong nhà, cho thợ thuyền và những người  hầu  cận.  Hắn  không  dám  tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho bạn hữu và những người cộng sự.  Hắn  không  dành  riêng  một  phần của  cải để  cúng  dường  người tu hành và  các  vị  tu  sĩ  để  mang  lại  công  đức hầu  đạt  được  niềm  hạnh  phúc  thánh thiện và hướng mình [tái sinh] vào cõi thiên nhân.

“Của  cải  kếch  xù  của  một  người  như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn, bị cuốn  trôi  vì  lũ  lụt,  hoặc  rơi  vào  tay những  người  thừa  kế  chẳng  biết  yêu quý  mình.  Này  đại  vương,  nếu  không biết  sử  dụng  của  cải  một  cách  thích đáng  để  mang  lại  hạnh  phúc  thì  rồi cũng sẽ bị mất đi như thế.

“Này đại  vương,  đấy  cũng  chẳng  khác gì một cái hồ đầy nước mát, tinh khiết, ngọt lành và trong vắt, thế nhưng lại ở vào  một  chốn  hoang  vu,  không  có  ai đến được để uống, hoặc tắm mát, hoặc dùng vào việc này hay việc nọ. Này đại vương,  nếu  nước  không được  sử  dụng để  mang  lại  hạnh  phúc  thì  cũng  sẽ  bị thất thoát đi một cách vô ích.

Cũng  thế,  này  đại  vương,  một  người keo  kiệt  có  một  gia  tài  kếch  xù  không hề  biết  tiêu  xài  để  mang  lại  niềm  hân hoan và thích thú cho mình. Hắn không biết tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ […]. Như thế, này đại vương, nếu một gia tài kếch xù không  được  sử  dụng  thích  đáng  để mang lại hạnh phúc thì rồi cũng sẽ bị mất đi như thế.

“Thếnhưng, này đại vương, nếu đấy là một người có lòng rộng lượng, tích lũy được một gia tài kếch xù, biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích  thú  cho  mình.  Hắn  biết  đem  ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho vợ con. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích  thú  cho  tôi  tớtrong  nhà,  cho  thợ thuyền  và  những  người  hầu  cận.  Hắn biết  đem  ra  tiêu  xài  đểmang  lại  niềm hân  hoan  và  thích  thú  cho  bạn  bè  và những người cộng sự. Hắn biếtđể riêng ra một ít của cải để cúng dường người tu hành và các tu sĩ để mang lại công đức  hầu  đạt  được  niềm  hạnh  phúc thánh  thiện  và  hướng  mình  [tái  sinh] vào cõi thiên nhân.

Này đại  vương,  đấy  là  cách  biết  sử dụng  gia  tài  kếch  xù  của  mình  một cách  thích  đáng,  không  bị  vua  chúa tịch  thu,  không  bị  trộm  cắp  vơ  vét, không bị thiêu hủy vì hỏa hoạn, không bị cuốn trôi vì lũ lụt, không rơi vào tay những   kẻ   thừa   kế   không   biết   yêu thương mình.

“Này đại  vương,  đấy  là  cách  sử  dụng của cải một cách thích đáng, không để bị  mất  đi  mà  biết  đem  ra  tiêu  xài  để mang  lại  hạnh  phúc.  Này  đại  vương, đấy  cũng  giống  như  một  cái  hồ  đầy nước   mát,   tinh   khiết,   ngọt   lành   và trong  vắt,  ở  vào  một  nơi  thuận  tiện, cạnh  một  ngôi  làng  hay  một  thị  trấn giúp  cho  mọi  người  có  thể  đến  uống, tắm  mát,  hoặc  để  dùng  vào  việc  này hay việc nọ. Này đại vương, nếu nước được  sử  dụng  thích  đáng  thì  chẳng những  sẽ  không  thất  thoát  đi  mà  lại còn mang lại hạnh phúc.

“Cũng  thế,  này  đại  vương,  một  người có tấm lòng rộng lượng, thu góp được một gia tài kếch xù và biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho mình. Hắn biết đem ra tiêu xài để mang lại niềm hân hoan và thích thú cho cha mẹ.Hắn biết đem ra tiêu xài để mang  lại  niềm  hân  hoan  và  thích  thú cho  giađình.[…].  Này  đại  vương,  sử dụng  gia  tài  kếch  xù  một  cách  thích đáng  không  phải  là  một  sự  phí  phạm, mà  đấy  là  cách  tiêu  xài  để  mang  lại hạnh phúc.

Con suối mát nơi chốn hoang vu,

Nào có ai đến được để uống? Nước tràn đi, phí phạm và vô ích.

Nào có khác gì của cải của một người keo kiệt,

Không  biết  tiêu  xài  cho  mình,  cũng chẳng biết hiến dâng.

Người có tấm lòng rộng lượng,

Thu góp được của cải và ý thức được bổn phận mình,

Sẽtiêu dùng để nuôi dưỡng mẹ cha và giúp đỡ bạn bè.

Thanh cao, tấm lòng luôn rộng mở,

Khi chết hắn sẽ tìm thấy phúc hạnh nơi cõi thiên nhân.

(Samyutta  Nikaya,  I,  ed.  PTS,  1884-

1898, 91-92)

Vài lời ghi chú

Aputtaka, tên của bản kinh có nghĩa là “Người  không  có  con”  (để  thừa  kế), không phải là tên của một nhân vật nào cả. Theo Pya Tan (Samyuttaya Nikaya, translated  and  annotated  by  Pya  Tan, 2006)  thì  chữ  này  có  ý  ám  chỉ  một người không đáng để cho chúng ta ghi nhớ,  tức  mang  ít  nhiều  tính  cách  miệt thị.Thật  ra  thì  có  ít  nhất  hai  bản  kinh mang tên là Aputtaka-Sutta, cả hai đều có phần bố cục khá giống nhau, chỉ có phần  nội  dung  nhằm  mô  tả  người  keo kiệt thì mới có sự khác biệt (Smyuttaya Nikaya SN, III, 19 và SN, III, 20). Bài kinh  chuyển  ngữ  dưới  đây  là  bài  kinh Aputtaka-Sutta -1.

Giới luật Phật Giáo cấm người xuất gia không được giữ bất cứ một thứ gì gọi là của riêng. Thế nhưng đối với người thế  tục  thì  Phật  giáo  không  cấm  đoán họ làm giàu, nếu làm giàu bằng “những phương   tiện   sinh   sống   đúng”   (Bát Chánh  Đạo),  và  luôn  nhắc  nhở  họ: Phải   tiêu   xài   và   giúp   đỡ   người khác. Thật thế có rất nhiều kinh sách đề cập đến vấn đề này, chẳng hạn như khuyên  phải  tiêu  xài  các  nguồn  lợi nhuận mà mình thu góp được để mang lại  hạnh  phúc,  để  nuôi  nấng  mẹ  cha, giúp  đỡ  bạn  bè,  cấp  dưỡng  cho  người tu  hành  (Anguttara  Nikaya,  III,  259); phải  kiếm  tiền  một  cách  lương  thiện, tức  không  gây  ra  thiệt  hại  cho  các chúng  sinh  khác  (lường  gạt,  hay  chăn nuôi súc vậtđể giết thịt) và môi trường thiên  nhiên  (chặt  cây,  phá  rừng…),  và nhất  là  phải  chia  sẻ  sự  giàu  có  với những   người   chung   quanh,   và   phải luôn tự cảnh giác không được để vướng vào   các   thứ   cảm   tính   kiêu   căng (Anguttara Nikaya, I, 181), v.v…

Nói  chung  đối  với  người  thế  tục  Phật giáo  không  cấm  cản  việc  tìm  kiếm những thứ thích thú “giác cảm”, dù đấy chỉ là những thứ hạnh phúc hời hợt và tạm bợ, bởi vì Phật Giáo ý thức được là không  thể  nào  giúp  tất  cả  mọi  người trong  chốc  lát  có  thể  quán  thấy  được nguồn  gốc  sâu  xa  của  khổ  đau  phát sinh  từ  những  thứ  hạnh  phúc  ấy.  Dầu sao thì những niềm hạnh phúc tạm bợ đó  ít  ra  cũng  tránh  cho  họ  được  phần nào  những thứ khổ  đau  thật thô thiển, chẳng  hạn  như  hận  thù,  hung  dữ  ,  ích kỷ,  tham  lam,  keo  kiệt,  bủn  xỉn…  Vì thế  trong  bài  kinh  trên  đây  Đức  Phật cũng  đã  khuyên  những  người  có  của cải  nên  đem  ra  tiêu  xài  để  mang  lại “niềm hân hoan và thích thú cho chính mình,   cho  cha  mẹ   và  những  người chung quanh”.

Cách  nay  đã  hơn  hai  ngàn  năm  trăm năm thế mà Đức Phật đã nêu lên tệ nạn nghèo  đói  và  xem  đấy  là  một  sự  bất công trầm trọng của xã hội:

“Khi  sự  giàu  có  không  được  chia  sẻ cho người nghèo, thì tình trạng nghèo đói  lại  càng  gia  tăng.  Khi  tình  trạng nghèo đói gia tăng, thì trộm cắp cũng gia tăng. Khi trộm cắp gia tăng, thì con số  khí  giới  (để  tự  vệ  và  trừ khử  bọn cướp  giật)  cũng  sẽ  gia  tăngKhi  khí giới gia tăng thì việc sát nhân cũng gia tăng” (Anguttara Nikaya, III, 68).

Ngày  nay  dân  số  trên  địa  cầu  đã  tăng lên  bảy  tỉ  người,  tình  trạng  nghèo  đói trở nên trầm trọng hơn bao giờ hết. Ủy Ban  Nhân  Quyền  của  cơ  quan  Liên Hiệp Quốc cho biết là cứ mỗi năm giây thì lại có một đứa bé chết vì đói. Con số  khí  giới  trên  hành  tinh  này  cũng theo đó mà gia tăng, có khi còn nhiều hơn  cả  sự  cần  thiết,  để  thích  nghi  với sựnghèo  đói  đang  gia  tăng  ấy,  hầu  để bảo  vệ  miếng  ăn  cho  một  số  người, trong số đó biết đâu cũng có cả chúng ta.

Phật  giáo  luôn  luôn  khuyến  khích  các hành  động  từ  thiện  cùng  việc  bố  thí (dâna) và xem đấy là nhữngđiều xứng đáng tạo ra nghiệp lành cho kiếp sống hiện tại và cho cả các kiếp sống tương lai. Không nên “ăn một mình” và “làm ngơ” trước cái đói của kẻ khác. Những gì  mình  được  hưởng  hôm  nay  là  nhờ vào  những  gì  xứng  đáng  mà  mình  đã tạo   được   trong   các   kiếp   trước,   thế nhưng nếu chỉ biết sống một cách bần tiện,  keo  kiệt  thì  tránh  sao  khỏi  sẽ  tái sinh  trong  một  hoàn  cảnh  đói  nghèo. Đấy  là  những  gì  sơ  đẳng  nhất  trong giáo lý nhà Phật.

Thế  nhưng  oái  oăm  thay,  nào  có  mấy người  trong  chúng  ta  lại  tự  nhận  là mình  giàu  có  đâu.  Gặp  nhau  thì  than thở là chứng khoán dạo này tuột nhanh quá, thật là dại vì tiền dư bao nhiều là dồn cả vào đấy cho mất toi, trong khi đó  thì  tiền  mua  nhà  trả  góp  cho  ngân hàng còn hơn chục năm nữa mới hết, tệ hơn  nữa  là  hôm  qua  đã  dốc  túi  mua mấy  chục  tấm  vé  số  mà  chẳng  trúng được  đồng  nào.  Tết  nhất  đến  nơi,  còn phải quà cáp biếu xén cho thầy cô của bọn trẻ. Vật giá thì gia tăng, thế nhưng lại phải ăn Tết cho ra vẻ với người ta chứ…,  toàn  là  nợ  nần  và  các  chuyện phải tiêu xài. Thương thay cho sự túng quẫn của họ.

Thật vậy có mấy ai nhìn thấy cái “giàu có” của mình đâu? Của cải thật ra chỉ là  những  con  số  vô  nghĩa,  sự  giàu  có đích thật là ở trong đáy tim mình. Tết nhất  đến  nơi,  khi  ra  đường  ta  trông thấy một đứa bé lang thang, rách rưới, đen  đúa  và  bẩn  thỉu  đang  đứng  nhìn những  chiếc  quần  áo  mới  treo  lủng lẳng trong các cửa hàng, đôi khi cũng khiến cho ta phải bật khóc. Những giọt nước  mắtấy  mới  đúng  thật  là  sự  giàu có, tuy yên lặng thế nhưng rạt rào như đại dương mênh mông.

Ngoài  ra  còn  có  một  sự giàu  có  khác nữa  mà  tất  cả  mọi  người  đều  ngang hàng  nhau,  không  thể  vin  vào  đấy để ganh tị hay so đo với nhau được. Đấy là tất cả mọi người trong chúng ta đều có  hai  mươi  bốn  giờ  trong  một  ngày. Chúng ta sử dụng chúng như thế nào? Phải chăng để xem phim Hàn quốc bất tận, xem cô này “yêu” cậu kia, cậu kia “thương”  cô  khác,  ghen  tuông,  khóc lóc, đủ mọi chuyện éo le, gay cấn? Hay là  chúng  ta  thích  sang  nhà  hàng  xóm tán gẫu hay đánh bài, hoặc rủ nhau đi quán nhậu, đi uống “cà-phê vườn”, “cà- phê  đèn  mờ”  để  nghe  nhạc  “trữ  tình” bất  tận?  Đấy  là  một  sự  phung  phí  lớn lao nhất  của  kiếp  con  người,  tương  tự như chúng ta có một cái “hồnước mát và tinh khiết”, thế nhưng không biết lấy nước  ấy  để  tắm  và  cũng  không  có  ai đến được để uống một ngụm nào, cứ để cho nước tràn đi và thất thoát.

Nếu biết sử dụng những giây phút quý báu của kiếp người để học hỏi, tự trau dồi  hầu  giúp  mình  trở  nên  những  con người  xứng  đáng  hơn  và  cao  cả  hơn, thì những giây phút ấy sẽ trở thành một gia tài kếch xù, một nguồn tài nguyên bất tận và vô giá. Đấy cũng là một cách “mang ra tiêu xài của cải của mình một cách  thích  đáng”.  Nếu  quay  nhìn  lại quãng  đời  đã  trải  qua  thì  mỗi  người trong  chúng  ta  cũng  nên  tự  hỏi  xem mình đã phí phạm bao nhiêu giây phút quý báuấy của kiếp người.

Tuy  nhiên  cũng  có  thể  có  người  phản kháng lại và cho rằng việc học hỏi và tu  tập  vượt  quá  khả  năng  của  họ.Thật vậy những gì mình muốn thu đạt được từ bên ngoài thì có thể đòi hỏi nhiếu cố gắng  và  kiên  trì,  thế  nhưng  những  gì phát  xuất  từ  đáy  tim  mình  thì  cũng khôngđến  đỗi  khó  khăn  gì  cho  lắm. Chẳng  hạn,  nếu  trông  thấy  cha  mình ngồi trong yên lặng, bâng khuâng nhìn  ra đường, thì rót một tách nước trà để mời  cha  rồi  ngồi  xuống  với  cha  vài phút,  nếu  trông  thấy  những  nét  u  uẩn hiện  lên  trong  đôi  mắt  của  mẹ  thì  cố tìm   một   vài   lời   ngọt   ngào   để   gợi chuyện với mẹ, nếu không thì cũng có thể chạy sang nhà hàng xóm chơi đùa với mấy đứa trẻ con để cho mẹ chúng có  thì  giờ  dọn  dẹp  nhà  cửa  hoặc  bắc nồi cơm lên bếp. Những việc nhỏ nhoi như  thế  nào  có  khó  khăn  gì  đâu,  dần dần  rồi  ta  sẽ  có  thể  thực  hiện  được những  việc  khó  khăn  hơn,  ít  ra  thì những giây phút đó cũng ích lợi hơn là ngồi   xem   “Cô   gái   ĐồLong”   tung chưởng  hết  hiệp  này  sang  hiệp  khác, đến khi đứng lên thì uể oải, tâm trí trở nên đờ đẫn và ù lì.

Tóm lại hãy hiến dâng những gì mình có trong hai tay, trong đáy tim mình và cả những giây phút của kiếp người này.

Chúng  ta  luôn  luôn  giàu  có  hơn  là chúng ta tưởng vì thế đôi khi cũng nên nhìn lại xem mình có keo kiệt lắm hay không.  Thiển  nghĩ  bài  kinh  trên  đây dạy  cho  chúng  ta  hiểu  rằng  những  gì chúng ta ôm lấy khư khư chẳng những không  ích  lợi  gì  mà  chúng  sẽ  mất  đi vào một lúc nào đó.

Để  thay  cho  phần  kết  luận  cũng  xin trích thêm một bài kinh khác thật ngắn mang   tên   là   Aditta-Sutta,   tìm   thấy trong  Tương  Ưng  Bộ  Kinh  (Samyutta Nikaya,  I,  41).  Aditta  có  nghĩa  là  bốc cháy,  do  đó  có  thểtạm  dịch  bài  kinh này là bài Kinh về Hỏa Hoạn. Khi một căn nhà bốc cháy thì những gì cất dấu trong  đó  sẽ  hóa  thành  tro  bụi,  chỉ  có những  gì  đã  mang  cho  người  khác  thì mới còn lại mà thôi.

Thế nhưng đâu phải chỉcó một gian nhà bốc cháy mà cả thế gian này đang bốc cháy. Già nua đang bốc cháy, cái chết đang  bốc  cháy.  Theo  định  nghĩa  của Phật Giáo thì quá trình của sự già nua bắt  đầu  từ  khoảnh  khắc  tiếp  nối  ngay sau khi thụ thai, và cái quá trình đó vận hành không ngưng nghỉ cho đến lúc cái chết  xảy  ra.  Vì  thế  tất  cả  chúng  sinh trong thế giới này, không có một ngoại lệ nào cả, đều đang bị ngọn lửa của vô thường thiêu đốt. Một người tu tập khi đã  ý  thức  được  ngọn  lửa  mênh  mông đóđang  thiêu  đốt  thân  xác  mình  và  cả thế gian này, thì sẽ không còn nghĩ tới việc so kè từng xu mà chỉ biết nhìn lại xem trong hai tay mình còn lại những gì đểhiến dâng cho kẻ khác.

Bối cảnh của bài kinh này thật thi vị và thiêng liêng. Đức Phật đang ngồi thiền yên  lặng  giữa  đêm  khuya  nơi  ngôi vườn Kỳ Viên thì có một nữ thiên nhân (devata)  hiện  ra,  ánh  hào  quang  soi sáng  cả  khu  vườn.  Vị  nữ  thiên  nhân tiến đến gần Đấng Thế Tôn và đảnh lễ, rồi ngồi sang một bên. Đấng Thế Tôn cảm  ứng  cho  vị  nữ  thiên  nhân  hát  lên bài hát của một trận hỏa hoạn để hàng ngàn  đệ  tử  của  Ngài  và  các  người  thế tục đang mơ màng trong khu vườn có thể  lắng  nghe  giữa  đêm  thâu  thanh vắng. Sau đây là phần chuyển ngữ toàn bộ của bài kinh trên đây dựa theo bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh của Thanissaro   Bhikkhu   (The   Access   to Insight, June, 2010):

“Tôi  từng  được  nghe  như  thếnày:  Có một lần Đấng Thế Tôn đang ngụ tại tu viện     của     ngài     Cấp     Cô     Độc (Anathapindika)  trong  khu  vườn  Kỳ Viên, gần thành Xá-Vệ (Savatthi). Vào lúc nửa đêm, hiện ra một nữ thiên nhân tỏa  ánh  hào  quang  chiếu  sáng  cả  khu vườn.  Vị  nữ thiên  nhân  tiến  đến  gần Đấng  Thế  Tôn,  đảnh  lễ  rồi  ngồi  sang một bên. Sau khi ngồi sang một bên thì cất tiếng để hát lên bài hát sau đây:

“Khi căn nhà bốc cháy, Những gì còn sót lại,

Là những vật đã cho.

Kìa của cải giữ lại, Đang hóa thành bụi tro.

Cả thế gian bốc cháy!

Tuổi già thanh củi mục, Cái chết ngọn lửa hồng.

Bảo toàn nhanh của cải: Hiến dâng bằng hai tay.

Vật cho là quả ngọt,

Giữ lại, mối lo buồn:

Nào vua quan dòm ngó, Nào kẻ trộm rình mò, Hỏa hoạn, một đống tro. Kìa thân xác bỏ lại,

Nằm kia cùng của cải. Hỡi những ai giác ngộ! Nắm lấy hạnh phúc này, Bằng hai tay để ngửa.

Hân hoan đôi bàn tay,

Dù chỉ là ít ỏi,

Một chút này hiến dâng. Con đường nào rộng mở, Cõi thiên nhân đón chờ”.

(Tương    Ưng    Bộ    Kinh,    Samyutta Nikaya, I, 41)

Dịch thơ rất khó để tôn trọng từng chữ một,  do  đó  xin  chép  lại  dưới  đây  bản dịch  bằng  tiếng  Anh  của  Thanissaro Bhikkhu  nhằm  giúp  các  độc  giả  nào muốn tìm hiểu thêm:

When a house is on fire the vessel salvaged

is the one that will be of use, not the one left there to burn.

So when the world is on fire

with aging and death,

one should salvage [one’s wealth] by giving:

what’s given is well salvaged.

What’s given bears fruit as pleasure. What isn’t given does not:

thieves take it away, or kings;

it gets burnt by fire or lost.

Then in the end

one leaves the body

together with one’s possessions. Knowing this, the intelligent man enjoys possessions and gives.

Having enjoyed and given in line with his means,

uncensured he goes

to the heavenly state.

Bures-Sur-Yvette, 21.11.11

Hoang Phong