49245651_1664153947019348_7906043010972909568_n

Chúng ta cần tìm một đạo sư tâm linh cẩn thận

Thiết lập một mối quan hệ đệ tử – đạo sư là một bước vô cùng quan trọng với những người mới nhập môn về thực hành Phật giáoThời gian quý báu sẽ bị lãng phí nếu bạn lạc lối bởi xem ai đó là một đạo sư một cách không đúng đắnCuộc đời vốn đã ngắn ngủi. Gặp gỡ Giáo Pháp trong khoảng thời gian ngắn ngủi này cũng thật khó; gặp gỡ một đạo sư kim cương thực sự xứng đáng thì còn khó hơn; có thể noi theo đạo sư kim cương và thực hành Giáo Pháp một cách đúng đắn sau đó thì cực kỳ khó khăn. Như bạn có thể thấy, người ta có thể gặp phải vô vàn khó khăn trong quá trình tìm kiếm Giáo Pháp chân chính. Dẫu vậy, nếu người ta mong muốn nghiên cứu Phật Pháp, họ cần học hỏi những giáo lý đúng đắn và đi theo con đường đúng đắn.

Phật giáo giống như siêu thị cung cấp rất nhiều thứ. Mật điển Guhyagarbha của truyền thống Nyingma tuyên bố rằng Phật giáo có thể được chia thành năm thừa (Yana): Nhân và Thiên thừa (thừa của những vị tìm kiếm may mắn và hỷ lạc trong cõi người và trời, lần lượt), Thanh Văn thừaDuyên Giác thừaBồ Tát thừa và Kim Cương thừa. Dù người ta tìm cách để thực hành Giáo Pháp như thế nào, các kiểu thực hành khác nhau có thể được tìm thấy để phù hợp với mong ước của mỗi người. Như trong siêu thị, nơi mà người ta thoải mái lựa chọn, có nhiều cấp độ thực hành khác nhau trong Phật giáo, từ thế tục đến thù thắngcho đến tận Đại Viên Mãn vô song, sẵn có để lựa chọn tùy theo ý muốn của mỗi người. Mặc dù mong ước của chư Phật và Bồ Tát là tất cả đều thực hành vì sự thành tựu giải thoát thay vì lợi lạc thế gian, đó chỉ là một mong ước về phía chư vị. Chư vị sẽ không ép buộc tất cả thực hành Kim Cương thừa, cũng không Đại thừa hay Nguyên Thủy Theravada vì lý do đó, bởi hữu tình chúng sinh khác nhau về căn cơ. Liệu một phương pháp có đủ để đưa tất cả thoát khỏi luân hồiHiển nhiên là không. Chính vì lý do này, Đức Phật đã chuyển Pháp luân ba lần và trao truyền tám vạn bốn nghìn giáo lý. Sẽ chẳng cần tất cả những giáo lý này nếu chỉ một phương pháp có đủ năng lực diệu kỳ.

Nhân gian Phật giáo được khởi xướng bởi Thái Hư Đại Sư (1889-1947) cũng không phải là mẫu mực của tất cả giáo lý Phật giáo. Nó ủng hộ việc thành lập các tổ chức từ thiện vì lợi ích xã hội, cứu động vật hay giúp đỡ người nghèo giải quyết các vấn đề gặp phải trong đời sống hàng ngày. Những kiểu thiện hạnh này là thực hành của Nhân và Thiên Thừa và cũng là các hoạt động của chư Bồ Tát. Chư Bồ Tát không những không phản đối các hành động này, chư vị còn nhiệt thành tán dương tất cả hoạt động có thể làm lợi lạc hữu tình chúng sinhbao gồm nhưng không giới hạn ở việc hoằng dương Giáo Pháp và truyền cảm hứng để người khác thực hành. Việc những thiện hạnh này là các hoạt động của chư Bồ Tát hay có bản chất thế tục hơn thì được quyết định hoàn toàn bởi động cơ của chúng ta.

Ngày nay, nhiều người bình thường tuyên bố họ là những đệ tử của Đức Phật. Nhưng họ đã học được gì từ Đức Phật? Hầu hết các hành giả cư sĩtừ trí thức và doanh nhân cho đến những bà lão sống trong làng, thực hành Giáo Pháp như một cách vun bồi sự gia trì thế tục. Động cơ của họ khi thực hànhquy y và thọ năm giới là để mạnh khỏetrường thọ, công việc thuận lợi, kinh doanh thành công và v.v. vì bản thân họ và một cơ hội để đỗ một trường đại học tốt hay có được một công việc đầy hứa hẹn cho con cái. Họ có đang đi theo con đường của Đức Phật? Đức Phật không bao giờ làm điều gì trong số này. Chúng ta đều biết rằng sau khi Đức Phật phát Bồ đề tâm, Ngài chưa một lần mong cầu lợi lạc thế tục cho bản thân trong ba vô lượng kiếp. Kiểu “học hỏi con đường này của Đức Phật” hòa hợp với việc học hỏi Dharma nhiều hơn. Ý nghĩa của từ “dharma” [Giáo Pháp] trong Phạn ngữ bao trùm mọi hiện tượng thế gian và xuất thế gian. Trong bối cảnh của thực hành Giáo Pháp đúng đắn, “dharma” ám chỉ một khả năng đưa hữu tình chúng sinh thoát khỏi mọi khổ đau và có thể được dịch theo nghĩa đen thành “thứ nắm giữ”. Nó phù hợp với ý nghĩa của “dharma” nếu những người thực hành Nhân và Thiên Thừa tận hưởng sự gia trì như là thành quả và tái sinh trong các cõi cao hơn. Vì thế, tiến hành các thiện hạnh vì mục đích thành tựu những lợi ích thế tục không được xem là học hỏi theo con đường của Đức Phật mà là học hỏi “dharma”. Ngày nay, nhiều Phật tử tự xưng duy trì kiểu động cơ này.

Về những hành giả còn lại, một số tìm kiếm sự giải thoát của bản thân họ. Mặc dù chúng ta đều thường tuyên bố là những hành giả Đại thừa, thực sự, nhiều người chúng ta chỉ thực hành để giải thoát bản thân. Những chuyện như thực hành các Pháp tu sơ khởi [Ngondro], phóng sinhthắp hương và lễ lạy, đều được làm vì mục đích tích lũy công đức cho bản thân. Các hoạt động này không khác biệt nhiều lắm với việc làm việc hay giải quyết những vấn đề gia đình: làm việc là vì sinh kế của bản thân chúng ta, chứ không phải chúng sinh khác; thực hành năm Pháp tu sơ khởi và lắng nghe giáo lý là vì sự giải thoát của bản thân chúng ta, chứ không phải chúng sinh khác. Mọi thứ được làm vì lợi ích của riêng chúng ta.

Chỉ một phần rất nhỏ thực sự quan tâm đến lợi ích của chúng sinh khác, chứ không phải bản thân họ. Một phép so sánh trong các Kinh điển là: Trồng lúa để thu hoạch lúa gạo, nhưng rơm thì chẳng cần được trồng bởi nó có thể được thu hoạch ngoài ý muốn. (Trồng lúa giống như thực hành sáu sự hoàn hảo của chư Bồ Tát; gạo chính là lợi ích của hữu tình chúng sinh; còn rơm là lợi ích của bản thân). Một so sánh khác là: Hãy nhóm lửa để nấu cơm, nhưng khói thì không cần phải được quan tâm bởi nó sẽ tự nhiên xuất hiện từ lửa. (Nhóm lửa nấu cơm giống như trồng lúa; cơm giống như gạo; và khói thì giống như rơm). Điều mà những so sánh này nói với chúng ta là, mặc dù căn cơ của chúng ta bị hạn chế, nếu chúng ta thực sự buông bỏ hay gạt đi những bận tâm của bản thân – không chỉ những bận tâm trong đời này mà cả giải thoát trong tương lai – và tập trung một cách chân thành và vô điều kiện vào việc làm lợi lạc chúng sinh khác, lợi ích của bản thân chúng ta sẽ tự nhiên xảy ra.

Thực ravấn đề thực sự là chúng ta không thể buông bỏ; nếu chúng ta có thể, mọi chuyện tự nhiên vận hành theo đúng trình tự. Có một ví dụ rất tốt để hỗ trợ điều này. Chúng ta vốn đã ở trong luân hồi từ vô thủy; dù chúng ta đã sinh ra cao quý như vua trời Đế Thích hay thấp kém như kiến hoặc giun đất, chúng ta đã luôn nỗ lực để bảo vệ niềm yêu thích của bản thân, không bao giờ là của chúng sinh khác. Nhưng chúng ta đã làm được đến đâu vì bản thân? Không thực sự nhiều lắm, bởi chúng ta vẫn đang vật lộn trong vũng bùn luân hồi. Khi chết, chúng ta sẽ tay trắng rời bỏ cuộc đời này, chỉ giống như các đời quá khứ, và lại tiếp tục làm điều tương tự trong các đời tương lai. Mặt khác, Đức Phật thực sự đã buông bỏ tất cả và hoàn toàn tập trung vào lợi ích của chúng sinh khác. Như bản tiểu sử mở rộng của Ngài ghi chép, Đức Phật đã hiến dâng thân thể của Ngài, thậm chí tính mạng của Ngài, chỉ để cho một chúng sinh đang đói, chứ đừng nói đến những hy sinh khác. Ngài hoàn toàn thờ ơ với hạnh phúc của bản thântuy nhiên, Ngài đã thành tựu Phật quả với công đức và trí tuệ hoàn hảoVì vậy, có thể buông bỏ bận tâm ích kỷ thì giống như Đức Phật; không thể buông bỏ thì giống như hữu tình chúng sinh sáu cõi. Đáng tiếc là, trong những Phật tử, chỉ tương đối ít người thực sự có thể lĩnh hội tinh túy Đại thừa. Dẫu vậy, kết luận này chỉ dựa trên những hình tướng bên ngoài có thể quan sát được và vì thế, có thể không chuẩn xác.

Nó được cho là con đường Nguyên thủy Theravada nếu mục tiêu của việc học hỏi Giáo Pháp hay làm những thiện hạnh là vì sự giải thoát của riêng bản thân. Nếu mục tiêu là sự giải thoát cho chúng sinh khác, các hành động của chúng ta, ngay cả những hành động có vẻ là bất thiện, vẫn là các hành động phước lành dẫn đến Phật quả. Có nhiều câu chuyện như vậy trong các Kinh điển Phật giáoChúng ta thường tham gia vào các hoạt động như phóng sinhthực hành và v.v vì sự yêu thích riêng. Về bề ngoàichúng ta đang làm mọi chuyện đúng đắn, nhưng thật sự, các hành động của chúng ta về cơ bản là không hoàn mỹ.

Có phải mọi hành động được thực hiện vì chúng sinh khác đều tuân theo Giáo Pháp chân chính? Không nhất thiết. Thực sự có nhiều người tốt bụng trong xã hội của chúng ta. Mỗi lần tôi nghe nói về nỗ lực của họ, tôi cảm thấy xấu hổ vì bản thân không xứng. Họ không phải là Phật tử và họ cũng chẳng tuyên bố ý định thành tựu Phật quả để giải thoát chúng sinh khác. Tuy nhiênchúng ta đều có thể thấy điều tốt đẹp mà họ làm. Còn chúng ta, những Phật tửchúng ta có thể cố gắng làm mới lời nguyện của mình mỗi ngày bằng cách trì tụng nhiều lần: “Con phải phát Bồ đề tâm để cứu chúng sinh khác khỏi khổ đau”. Nhưng chẳng phải chúng ta chỉ đầu môi chót lưỡi? Liệu tâm và hành động của chúng ta có tương ứng với lời nguyện?

Nói ngắn gọn, chỉ tiến hành các hành động vị tha, điều giúp đỡ hữu tình chúng sinh đến giải thoát, được cho là con đường đúng đắn với chúng tacon đường đến giác ngộ.

Chúng ta cần đi theo con đường này như thế nào? Chúng ta cần sự hướng dẫn của những thiện tri thức tâm linh tốt lành (kalyanamitra) để dẫn dắt thành công trên con đường đến giải thoát. Lấy ví dụ, trong vô số đời của chúng tachúng ta ắt hẳn đã tích lũy kiến thức về thế giới mà chúng ta sống nhiều lần; chỉ là chúng ta không thể nhớ. Bây giờ, thậm chí để học hỏi về một môn họcchúng ta vẫn cần sự dìu dắt của một vị thầy để làm chủ nó. Không quan tâm đến những yêu thích của bản thân là điều gì đó chúng ta chưa từng làm, chưa nghĩ đến hay thậm chí chưa nằm mơ đến từ vô thủy, trong khi bận tâm đến sở thích của bản thân là điều chúng ta luôn luôn làm trong mỗi đời. Đức Phật yêu cầu chúng ta từ bỏ điều mà chúng ta quen thuộc và chấp nhận điều mà chúng ta chưa từng nghĩ đến. Hãy thử tưởng tượng xem điều đó có thể khó khăn đến nhường nào! Chỉ với sự giúp đỡ của những vị dẫn dắt tâm linh tốt lànhchúng ta mới có thể thành công trong nỗ lực này. Vì vậy, điều đặc biệt quan trọng là lựa chọn cẩn thận vị đạo sư kim cương và người dẫn dắt tâm linh.

Khenpo Tsultrim Lodro Rinpoche